Soạn bài Ai đã đặt tên cho dòng sông SGK Ngữ Văn 11 tập 1 Chân trời sáng tạoTheo bạn, vai trò của sông Hương trong tư cách “người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở” được nói đến trong đoạn đầu có được thể hiện trong phần còn lại của văn bản hay không? Dựa vào đâu để khẳng định như vậy? Sáng tác một bài thơ, vẽ một bức tranh,... về hình tượng sông Hương (hoặc về sông núi quê hương của bạn). Nội dung chính Ai đã đặt tên cho dòng sông: Bài bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường kể về một dòng sông thơ mộng mà thiên nhiên dành tặng riêng cho xứ Huế mộng mơ. Dòng sông Hương hiện lên lúc hoang dại như một cô gái Digan, lúc lại rất trữ tình và thơ mộng. Trước khi đọc Câu 1 (trang 11, SGK Ngữ Văn 11 tập 1 - CTST): Bạn đã biết gì về Huế? Hãy chia sẻ với các bạn về điều đó. Phương pháp: Dựa vào các bài báo, bộ phim tài liệu và kiến thức đã học hoặc đã xem, chia sẻ các nội dung bạn biết sau đó rút ra điều bạn cảm thấy thú vị nhiều nhất ở Huế. Trả lời: - Huế từng là kinh đô (cố đô Huế) của Việt Nam dưới triều Tây Sơn (1788–1801) và triều Nguyễn (1802–1945). - Hiện nay, thành phố là một trong những trung tâm về văn hóa – du lịch, y tế chuyên sâu, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ của Miền Trung - Tây Nguyên và cả nước. - Khung cảnh và thiên nhiên mang vừa mang vẻ đẹp mộng mơ vừa mang vẻ đẹp hùng vĩ. Câu 2 (trang 11, SGK Ngữ Văn 11 tập 1 - CTST): Dựa vào nhan đề và hình ảnh minh họa, bạn dự đoán gì về nội dung của văn bản? Phương pháp: Dựa vào nhan đề và đặc điểm của sự vật được minh họa trong ảnh – dòng sông Hương – địa điểm nổi tiếng ở Huế, nêu ra nội dung và ý nghĩa của văn bản được đề cập. Trả lời: Dựa vào nhan đề Ai đã đặt tên cho dòng sông và hình ảnh về dòng sông Hương được khắc họa trong ảnh làm người đọc liên tưởng đến vẻ đẹp của dòng sông Hương. Từ câu hỏi tu từ ngay ở nhan đề đã tạo dấu ấn nơi trái tim người đọc về vẻ đẹp cổ kính, kì bí nhưng đậm chất lãng mạn của dòng sông nơi vùng đất cố đô. Đọc Văn Bản Câu 1 (trang 12 SGK Ngữ văn 11 tập 1 - CTST): Đoạn văn này miêu tả khúc sông nào của sông Hương? Nét đẹp riêng của khúc sông này là gì? Phương pháp: Xem lại đoạn văn mở đầu và suy luận vẻ đẹp độc đáo của đối tượng cần phân tích. Trả lời: - Đoạn văn này miêu tả khúc sông ở thượng nguồn: + Trong đại ngàn Trường Sơn, sông Hương được so sánh “là một bản trường ca của rừng già” với nhiều cung bậc: “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt vượt qua ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn…” + Sông Hương được ví như “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại.” Câu 2 (trang 13 SGK Ngữ văn 11 tập 1 - CTST): Bạn hình dung như thế nào về hình ảnh sông Hương qua đoạn văn này? Phương pháp: Xem lại đoạn văn, thông qua các chi tiết liên tưởng để hình dung về vẻ đẹp của sông Hương. Trả lời: Thiên nhiên Huế được nhà văn tái hiện thật sinh động với vẻ đẹp biến chuyển phong phú trong thời gian và cả không gian. Sông Hương phản chiếu vẻ đẹp biến ảo của xứ Huế “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Gắn liền với dòng sông là những địa danh vô cùng quen thuộc: Hòn Chén, Nguyệt Biều, Vọng Cảnh, Thiên Thai dường như sống động hơn: “sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “sắc nước trở nên xanh thẳm”… -> Sông Hương tôn tạo vẻ đẹp cho thiên nhiên xứ Huế và dòng sông cũng tạo nên một mảng trời riêng đầy sắc màu, văn hóa vùng đất cổ kính cố đô. Câu 3 (trang 14 SGK Ngữ văn 11 tập 1 - CTST): Nêu tình cảm, cảm xúc của tác giả thể hiện qua đoạn văn này. Phương pháp: Đọc lại đoạn văn và nêu nét tình cảm nổi bật của tác giả. Trả lời: Qua đoạn văn này tác giả muốn thể hiện nỗi nhớ thương da diết về vẻ đẹp lặng lờ yên ả của sông Hương. Câu 4 (trang 14 SGK Ngữ văn 11 tập 1 - CTST): Bạn hiểu gì về mối quan hệ giữa sông Hương với Huế qua câu văn “Quả đúng như vậy…của những mái chèo khuya”? Phương pháp: Đọc lại đoạn văn chứa câu văn trên và phân tích mối quan hệ, sự liên quan giữa 2 đối tượng cần phân tích Trả lời: Dưới cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương được đối sánh trong các ngành nghệ thuật, sông Hương về với Huế như hồn gặp xác, là tiếng nói của người con gái đi được nửa cuộc đời và tìm được người tình nhân đích thực. Sông Hương đã làm cho Huế đẹp một cách trầm lặng và có chút gì đó hấp dẫn nhưng rất kín đáo. Từ góc độ văn hóa, trong cách nhìn với âm nhạc tác giả đã gắn sông Hương với một nền âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Từ đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã liên hệ đến việc nghe hát trên sông Hương. Nhà văn đã đưa ra một minh chứng rằng: “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này trong một khoang thuyền nào đó giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Từ góc nhìn văn hóa, người nghệ sĩ đã tưởng tượng về đại thi hào Nguyễn Du, về Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Nhà văn đã đặt hình ảnh dòng sông trong mối quan hệ với tiếng chuông chùa ngân nga khi vào Huế để nhìn nhận. Câu 5 (trang 14 SGK Ngữ văn 11 tập 1 - CTST): Bạn hiểu như thế nào về hình ảnh “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc” trong đoạn văn này? Phương pháp: Đọc lại đoạn văn và phân tích hình ảnh Trả lời: Trong lịch sử, sông Hương mang vẻ đẹp hùng tráng, vẻ vang, bởi nó gắn bó với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta (tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới phía Nam của nước Đại Việt, soi bóng kinh thành Phú Xuân của Nguyễn Huệ vào thế kỉ 18, sống bi tráng cùng những cuộc khởi nghĩa thế kỉ 19, đi vào thời đại CMT8 và lập bao chiến công qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ). Sau khi đọc Câu 1 (trang 16, SGK Ngữ văn 11 tập 1 - CTST): Thực hiện các yêu cầu dưới đây: a. Nêu một số chi tiết cho thấy hình tượng sông Hương trong văn bản được miêu tả từ nhiều góc nhìn khác nhau (thiên nhiên, lịch sử, văn hoá,...). b. Liệt kê một số từ ngữ, câu văn cho thấy sự hiện diện cái “tôi” của tác giả trong văn bản. c. Phân tích vẻ đẹp của sông Hương được miêu tả qua một đoạn văn trong văn bản. Phương pháp: Đọc lại văn bản và thực hiện yêu cầu Trả lời: a. * Vẻ đẹp sông Hương về địa lý: – Hành trình của dòng sông: nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” gây tò mò cho người đọc với câu hỏi về nguồn gốc dòng sông và khi đi dọc theo quá trình đi khám phá dòng sông, tác giả cũng tìm thấy được cội nguồn của sông Hương: + Thượng nguồn con sông toát lên vẻ đẹp kỳ vĩ: chảy “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn…”; “phóng khoáng và man dại”. + Khi chảy khỏi phạm vi trong vùng đại ngàn, sông Hương chuyển dòng, ẩn mình trong cuộc hành trình giữa lòng Trường Sơn, “ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng” → Vẻ đẹp dữ dội và hùng vĩ của sông Hương mà ít ai biết đến khi lẫn vào giữa rừng già đại ngàn. Sông Hương trở nên dịu dàng đến lạ khi chảy qua vùng núi rừng hiểm trở: “uốn mình theo những đường cong thật mềm”. “Dòng sông mềm như tấm lụa”, cứ thế êm đềm trôi đi giữa hai dãy đồi như thành quách, chảy qua các lăng tẩm đồ sộ, qua chùa Thiên Mụ và “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”. → Tất cả những gì thiên nhiên ban tặng cho dòng sông Hương xứ Huế là tinh túy và tuyệt vời nhất để rồi dòng sông như trở thành “người mẹ phù sa” và mang trong mình vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”. + Khi chảy đến giữa thành phố Huế, dòng sông bỗng dịu dàng, tĩnh lặng, lững lờ trôi thật chậm, in cả bóng cầu Tràng Tiền trông từ phía xa nhỏ nhắn như “những vành trăng non”. + Xuôi về phía dưới Cồn Hến “quanh năm mơ màng trong sương khói”, hòa cùng màu xanh bao trùm của thôn Vĩ Dạ, sông Hương mang vẻ đẹp huyền ảo, mơ màng. + Tác giả sử dụng biện pháp nhân hóa để thể hiện nội tâm hóa hình dáng dòng sông: “Đó là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. → Phép nhân hóa như một biện pháp đắt giá thổi hồn vào dòng sông và hơn cả là để nhà văn có thể kết nối sông Hương với con người và văn hóa của mảnh đất Châu Hóa xưa và xứ Huế ngày hôm nay. – Sông Hương và thiên nhiên xứ Huế: Tiếp bước theo dòng chảy của sông Hương, ta sẽ bắt gặp một bức tranh thiên nhiên đẹp đến mê hồn: + Thiên nhiên Huế được nhà văn tái hiện thật sinh động với vẻ đẹp biến chuyển phong phú trong thời gian và cả không gian. → Sông Hương tôn tạo vẻ đẹp cho thiên nhiên xứ Huế và dòng sông cũng tạo nên một mảng trời riêng đầy sắc màu, văn hóa vùng đất cổ kính cố đô. – Sông Hương và con người xứ Huế: + Thiên nhiên cùng dòng sông luôn đồng hành, gắn bó, gần gũi với con người. Tính cách con người xứ Huế được thể hiện qua dòng chảy sông Hương: mềm mại, chí tình, “mãi mãi chung tình với quê hương xứ xở”. + Qua màu sắc không gian đất trời của Huế, màu sương khói ẩn hiện trên sông Hương, người con gái xứ Huế hiện lên qua ánh nhìn tinh tế của nhà văn với trang phục trang nhã, dịu dàng đậm chất người con gái Huế xưa “sắc áo cưới màu điều – lục các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng”. * Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên từ góc nhìn lịch sử: – Với góc nhìn lịch sử, dòng sông Hương lại không còn là một cô gái “Di – gan man dại”, cũng không còn là “người đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa” mà đã trở thành một chứng nhân lịch sử với những biến chuyển lớn của non sông. Sông Hương như “sử thi viết giữa màu xanh cỏ lá xanh biếc” → Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất hùng tráng và trữ tình. Sông Hương như một bản anh hùng ca bi tráng, còn giữa đời thường thì lại là một bản tình ca “Còn non, còn nước, còn dài – Còn về, còn nhớ…”. – Tác giả đã nhìn thấy những dấu tích lịch sử từ dòng sông; từng nhánh sông nhỏ đến “những cây đa, cây cừa cổ thụ” cũng chất chứa trong đó một phần của lịch sử: + Nhìn lại quá khứ để một lần nữa khẳng định vai trò quan trọng của dòng sông Hương trong những trang sử dân tộc. Từ thời đại Vua Hùng, sông Hương là “dòng sông biên thùy xa xôi”. Trong các giai đoạn trung đại của lịch sử, sông Hương với tên gọi Linh Giang, đã “oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt”. Dòng sông gắn liền với những chiến công của Nguyễn Huệ. Sông Hương đẫm máu những cuộc khởi nghĩa TK XIX. Sông Hương gắn liền với cuộc CMT8 và cùng đó là những chiến công vang dội rung chuyển non sông. Và sông Hương cùng rất nhiều di sản văn hóa Huế phải oằn mình gánh vác sứ mệnh đất nước dưới sự tàn phá của bom Mỹ… → Chất trữ tình có đôi chút giảm đi để nhường chỗ cho chất phóng sự với những dấu ấn sự kiện lịch sử. → Quay về một thời quá khứ đạn bom oanh liệt, nhà văn thể hiện rõ niềm tự hào về lịch sử của một dòng sông có cái tên mềm mại, nhẹ nhàng nhưng đầy kiên cường, kiêu hãnh qua thăng trầm lịch sử. * Vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn văn hóa: Trong góc nhìn tinh tế của nhà văn, sông Hương còn chất chứa một nền văn hóa phi vật chất. – Sông Hương – dòng sông âm nhạc: + Chính những âm thanh đặc biệt của dòng sông (tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, tiếng mái chèo khua sóng đêm khuya, tiếng nước vỗ vào mạn thuyền…) đã hình thành nên những làn điệu hò da diết và một nền âm nhạc cổ điển đáng nhớ nơi đất Huế. Cũng chính trên dòng sông ấy, những câu hò Huế được cất lên tự nhiên nhất làm mênh mang, xao xuyến lòng người… + Quan sát sông Hương, nhà văn đã nhiều lần liên tưởng đến “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đại thi hào cũng đã từng có quãng thời gian sống ở đây, những trang Kiều đã được ra đời trên mảnh đất cố đô này. → Bóng dáng đại thi hào Nguyễn Du và những trang Kiều nhiều lần được thể hiện trong bài kí thể hiện khả năng liên tưởng vô cùng phong phú, với vốn văn hóa sâu rộng cùng sự gắn kết với những thông điệp truyền thống. Sông Hương – dòng sông thi ca + Tác giả đã thổi hồn vào những vần thơ tâm đắc của Tản Đà về Huế: “Dòng sông trắng – Lá cây xanh”. Từ hình ảnh thơ trên kết hợp cùng với tâm hồn thơ của tác giả “màu cỏ lá xanh biếc” là minh chứng rõ ràng nhất cho sự tương giao giữa những tâm hồn nghệ sĩ với những rung động nhạy cảm về sắc biếc đặc trưng của thiên nhiên đất Huế. + Bên cạnh đó là một sông Hương hùng tráng bất tử “như kiếm dựng trời xanh” trong thơ Cao Bá Quát hay hình ảnh một sông Hương “nỗi quan hoài vạn cổ” trong thơ Bà Huyện Thanh Quan… → Bằng vốn kiến thức văn học giàu có và phong phú mà tác giả đã chạm tới linh hồn của một dòng sông mà văn chương nghệ thuật vẫn luôn gọi tên nhưng chính dòng sông ấy chẳng bao giờ tự lặp lại mình trong cảm nhận và cảm hứng của những người nghệ sĩ. b. Cái tôi là nét riêng, điểm khác biệt của mỗi cá nhân (Ở phương diện khác, cái tôi là biểu hiện cao độ của ý thức cá nhân, xuất hiện khi con người có nhu cầu được là chính mình). Với văn học, cái tôi không chỉ thể hiện con người mà còn thể hiện phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn. - Trong thể loại tuỳ bút, bút kí, cái tôi của người viết trở thành một hình tượng trung tâm và xuất hiện trực tiếp thành nhân vật tôi. Nếu trong truyện ngắn, nhân vật tôi là hình tượng hư cấu thì trong kí, nhân vật tôi đồng nhất với tác giả. Sự hấp dẫn của thể loại này, xét đến cùng là là sự hấp dẫn của cái tôi tác giả. Đặc điểm của cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng sông? Là: *Một cái tôi uyên bác - Thể hiện ở vốn tri thức, vốn sống phong phú. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng vốn hiểu biết từ nhiều phương diện khác nhau như địa lí, lịch sử, văn hoá (thơ ca, âm nhạc, phong tục tập quán…) để cảm nhận vẻ đẹp của dòng sông Hương. - Thể hiện ở vốn tri thức, vốn sống sâu sắc. Chẳng hạn, khám phá phương diện địa lí của dòng sông xứ Huế, tác giả đã tìm hiểu tận thượng nguồn của nó trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn; khám phá vẻ đẹp lịch sử của con sông, tác giả đã tìm hiểu nó từ thời Hùng Vương, thời Nguyễn Trãi, thời Quang Trung đến thời hiện đại. *Một cái tôi tài hoa, tinh tế, lãng mạn - Thể hiện ở cái nhìn mang tính phát hiện về một dòng sông vốn đã quen thuộc với tất cả mọi người. Do tìm hiểu sông Hương từ cội nguồn của nó giữa lòng Trường Sơn, do gắn sông Hương với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra vẻ đẹp hùng tráng của dòng sông vốn chỉ được biết là dòng sông thơ mộng. - Thể hiện ở khả năng quan sát tinh tường, sức tưởng tượng và liên tưởng phong phú. + Sông Hương được nhìn nhận bằng cặp mắt của nghệ sĩ giàu cảm xúc nên hiện lên với vẻ đẹp phong phú: khi mãnh liệt và sâu lắng, khi phóng khoáng man dại mà bình thản, khi trầm mặc cổ kính, khi chỉ là mặt hồ yên tĩnh… + Sông Hương được hình dung như người con gái, người phụ nữ với nhiều dáng vẻ, cung bậc cảm xúc khác nhau. - Thể hiện ở tài năng nghệ thuật của nhà văn khi miêu tả vẻ đẹp của sông Hương. + Liên tưởng phóng túng, tài hoa (qua sử dụng các biện pháp tu từ). + Vốn ngôn ngữ phong phú. + Câu văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường giàu nhạc điệu, giàu chất thơ. *Một cái tôi có tình yêu sông Hương, yêu xứ Huế tha thiết, gắn bó sâu nặng với quê hương đất nước. - Tác giả miêu tả vẻ đẹp sông Hương bằng một tình yêu say đắm, miêu tả sông Hương bằng nhiều phương diện, nhiều góc độ, hiểu nỗi niềm dòng sông trong dòng chảy, khúc cua của nó; đề xuất cho người đọc cách cảm nhận về sông Hương. Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành tri kỉ của sông Hương. - Từ tình yêu sông Hương, tác giả thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người, văn hoá Huế tha thiết. - Trách nhiệm của một công dân với đất nước khiến Hoàng Phủ Ngọc Tường lật từng trang sử, giở từng trang địa lí, tìm hiểu từng phong tục để viết về sông Hương, từ đó bài kí giúp người đọc hiểu và yêu sông Hương hơn. → Cái tôi của nhà văn trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? có thể đồng nhất với con người Hoàng Phủ Ngọc Tường: uyên bác, tài hoa và tình yêu sâu nặng với quê hương đất nước. Qua cái tôi của nhà văn ta hiểu rõ hơn nét riêng trong phong cách nghệ thuật Hoàng Phủ Ngọc Tường: lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. c. Đoạn trích được mở đầu bằng một nhận xét mang đậm tính chủ quan về dòng sông Hương: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ có sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Nhà văn không dừng lại ở việc ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành với vẻ đẹp sang trọng, cổ kính của sông Hương trong thành phố Huế, ông khao khát ngược dòng không gian, tìm về cội nguồn của dòng sông nơi đại ngàn để khám phá những vẻ đẹp bí ẩn, những sức mạnh tiềm tàng được đóng kín trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông trước khi nó về với Huế. Hình ảnh so sánh “bản trường ca của rừng già” khiến sông Hương hiện ra với chiều dài, chiều rộng bao la và dòng chảy mãnh liệt trong sự ngưỡng mộ và trân trọng của nhà văn. Phép điệp cấu trúc cùng những động từ giàu sắc thái biểu cảm như tái hiện âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ của con sông giữa những cánh rừng đại ngàn. Những hình ảnh đối lập làm bật lên những vẻ đẹp đa dạng, độc đáo của sông Hương khúc thượng nguồn. Những cô gái bô-hê-miêng xinh đẹp và bí ẩn với tính cách mạnh mẽ, phóng túng, ưa tự do, ca hát, nhảy múa đã được gán cho dòng chảy hoang dã khiến cho sông Hương khúc thượng nguồn càng trở nên quyến rũ, đắm say. Sự dịu dàng như một cái bến bình yên sau những thác ghềnh, sóng gió Nhà văn lý giải sự tương phản của sông Hương ở hai khúc thượng lưu và hạ lưu không phải bằng những kiến thức địa lý đơn thuần mà còn bằng cái nhìn suy tư, thấm đẫm tình yêu. Với cách nhìn ấy, sông Hương trong thành Huế vẫn sẽ mang vẻ đẹp bình lặng nhưng không tẻ nhạt, đơn điệu mà thâm trầm, sâu sắc. Đó là vẻ đẹp kín đáo của con người tuyệt đối không muốn bộc lộ cái quá khứ của nửa cuộc đời đầu oanh liệt đã vĩnh viễn ở lại với những cánh rừng đại ngàn. “… hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”. Câu 2 (trang 16, SGK Ngữ văn 11 tập 1 CTST): Chỉ ra yếu tố tự sự, yếu tố trữ tình và tác dụng của việc kết hợp hai yếu tố đó trong đoạn văn: “Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên ... chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”. Tìm và phân tích một vài đoạn khác trong văn bản có đặc điểm tương tự. Phương pháp: Đọc kĩ đoạn văn Chú ý những yếu tố tự sự, trữ tình và nên tác dụng của việc kết hợp hai yếu tố đó Trả lời: * Đoạn văn: “Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên… chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”. - Yếu tố tự sự: giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực theo hướng tây nam – đông bắc; nơi cuối con đường là chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời. - Yếu tố trữ tình: như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên; nơi cuối con đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng…nhỏ nhắn như những vành trăng non. => Tác dụng của việc kết hợp hai yếu tố đó là: Giúp cho câu văn trở nên trong trẻo, có hồn và có tình hơn; lột tả được hết những vẻ đẹp của sông Hương khi đi qua. * Phân tích đoạn văn: “Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như con lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. - Yếu tố tự sự: Vùng châu thổ cùng sự tươi tốt, rầm rộ của rừng già với những cây cổ thụ ngàn năm cùng những ghềnh thác, đáy vực và cả rừng đỗ quyên đỏ rực. - Yếu tố trữ tình: Châu thổ êm đêm, bản tình ca của rừng già, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như con lốc vào những đáy vực bí ẩn, dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng => Tác dụng của việc kết hợp hai yếu tố đó là: Giúp cho câu văn trở nên đẹp đẽ, thơ mộng đi vào lòng người đọc, làm toát lên vẻ đẹp huyền bí, dịu dàng thơ mộng của sông Hương khi ở thượng nguồn. Câu 3 (trang 16, sgk Ngữ văn 11 Tập 1 CTST): Phân tích tác dụng của một số biện pháp tu từ được sử dụng trong văn bản. Phương pháp: Đọc kĩ văn bản Chú ý một số biện pháp tu từ và phân tích tác dụng Trả lời: - Biện pháp so sánh: “[…] sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” Tác dụng: khiến sông Hương trở nên sinh động, có hồn, dòng sông gần với tâm hồn của con người xứ Huế. - Biện pháp nhân hóa: “[…] sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long […]” Tác dụng: khiến sông Hương trở nên sinh động, có hồn, gần gũi và thân thiết với con người. Câu 4 (trang 16 sgk Ngữ văn 11 Tập 1 CTST): Nhận xét về cách thể hiện cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm. Phương pháp: Đọc kĩ tác phẩm Chú ý những yếu tố liên quan và nhận xét về cảm hứng chủ đạo Trả lời: Cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm được thể hiện rõ qua cảm hứng thẩm mĩ và văn phong của tác giả: - Cảm hứng thẩm mĩ: Ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên phong phú, huyền ảo như đời sống tâm hồn của con người. Cảnh vật sông Hương – con sông gắn bó với lịch sử, văn hóa của Huế và cũng là của dân tộc = > thể hiện sự yêu mến, say mê vẻ đẹp đối với dòng sông, đất nước. - Văn phong: + Ngôn ngữ uyển chuyển, giàu hình ảnh, phong phú, giàu chất thơ, sử dụng nhiều biện pháp tu từ: ẩn dụ, nhân hóa, so sánh… + Có sự liên tưởng diệu kì, sự phong phú về kiến thức địa lí, lịch sử, văn hóa nghệ thuật và những trải nghiệm của bản thân. + Có sự kết hợp hài hòa của cảm xúc và trí tuệ, chủ quan và khách quan. Câu 5 (trang 16, SGK Ngữ văn 11, tập 1 CTST): Theo bạn, vai trò của sông Hương trong tư cách “người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở” được nói đến trong đoạn đầu có được thể hiện trong phần còn lại của văn bản hay không? Dựa vào đâu để khẳng định như vậy? Phương pháp: Đọc kĩ văn bản, đưa ra ý kiến của bản thân và nêu lý giải hợp lý Trả lời: Trước hết, dòng sông Hương hiền hòa, nên thơ gắn liền với nền âm nhạc cổ điển của miền Huế thơ. Với tâm hồn lãng mạn và một giọng văn đậm chất trữ tình, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đắm say ngắm nhìn dòng sông Hương yêu dấu và nhận ra rằng dòng sông ấy giống như một “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Người tài nữ ấy đã đánh thức tâm hồn nhà văn, đánh thức những tâm hồn Huế và những tâm hồn yêu Huế hết mực bằng những điệu nhạc êm dịu, mê đắm lòng người. Qua đoạn trích, ta cảm nhận được với Hoàng Phủ Ngọc Tường, không gian sông nước êm đềm, thơ mộng ấy cơ hồ chính là nguồn cảm hứng bất tận để “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Những câu văn tiếp theo là lời giãi bày chân thành của nhà văn với những tâm hồn đồng điệu. Cùng với sự so sánh mang nặng nỗi lòng, tâm tư ấy, Hoàng Phủ Ngọc Tường đưa người đọc đến với không gian màn đêm trên sông nước xứ Huế mà “trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của một mái chèo khuya”. “Người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” ấy đã đắp bồi nên một nền âm nhạc cổ điển đáng trân quý giữa cái không gian trầm mặc của kinh thành lăng tẩm. Đâu chỉ với âm nhạc, dáng hình “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” còn được nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện ở chỗ dòng sông đã khơi nguồn cảm hứng thi ca nghệ thuật ở biết bao tâm hồn nghệ sĩ. Liên tưởng đến “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu”, nhà văn nhắc đến “những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Mảnh đất Huế thơ ngày nay được nhiều người biết đến và lỡ yêu, lỡ thương bởi nhiều nét đẹp trong nó, nào là vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên, nét đẹp tâm hồn Huế và cả những nét đẹp văn hóa Huế. Đâu phải mấy ai cũng nhận ra rằng, những nét đẹp văn hóa ấy đã được ươm mầm, vun đắp từ “dòng phù sa mượt mà” của “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” – theo như cách nói của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Câu 6 (trang 16 sgk Ngữ văn 11 Tập 1 CTST): Việc tác giả có những phát hiện đặc biệt về sông Hương đã đem đến cho bạn bài học gì về cách quan sát, cảm nhận cuộc sống xung quanh? Phương pháp: Dựa vào những kiến thức đã học, nêu những bài học rút ra được của bản thân Trả lời: Dòng sông Hương là dòng sông của lịch sử, của thi ca. Trong lịch sử, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản anh hùng ca, ghi dấu bao chiến công oanh liệt của dân tộc. Từ dòng sông biên thùy của các vua Hùng, đến bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt thời trung đại. Thế kỉ mười tám nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bị tráng của thế kỉ mười chín với máu của các cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám của những chiến công rung chuyển. Không chỉ lịch sử mà còn là thi ca. Dòng sông không bao giờ tự lặp lại mình. Nó luôn mang vẻ đẹp mới. Nó có khả năng khơi nguồn cảm hứng mới cho các nhà văn nghệ sĩ. Một cảm hứng vô tận, nhiều sắc màu. Hình tượng sông Hương hiện lên trong tác phẩm càng khiến cho em yêu thêm dòng sông và muốn được đến thăm thú, nhìn ngắm vẻ đẹp của dòng sông. Đó chính là thành công của Hoàng Phủ Ngọc Tường. * Bài tập sáng tạo (trang 16 sgk Ngữ văn 11 Tập 1 CTST): Sáng tác một bài thơ, vẽ một bức tranh,… về hình tượng sông Hương (hoặc về sông núi quê hương của bạn). Phương pháp: Dựa vào tìm hiểu và kiến thức của bản thân Trả lời: Học sinh có thể sáng tác bài thơ hoặc vẽ tranh về sông Hương. Ví dụ tham khảo: - Thơ: Chiều Hương Giang (1981) – Tác giả Nguyễn Khoa Điềm Sau chiều nay, còn buổi chiều khác nữa, Có thể mây cao, có thể nắng vàng, Cơn gió thổi những buổi chiều chưa tới Tóc bao người bay rợi cả không gian...
Nhưng chiều nay, con bò gặm cỏ, Bên dòng sông, như chưa biết chiều tan. Tôi với nó lặng im, bè bạn Mắt nó nhìn dìu dịu nước Hương Giang.
Những buổi chiều, những buổi chiều quê hương, Tôi đã sống và tôi chưa được sống, Nhưng chiều nay, vô tình trong nắng muộn, Mắt tôi nhìn trong suốt nước Hương Giang... Sachbaitap.com
Xem thêm tại đây:
Bài 1. Thông điệp từ thiên nhiên
|
Câu 1 (trang 18, SGK Ngữ văn 11, tập 1 CTST): Xác định bố cục của văn bản và cho biết bố cục ấy đã thể hiện đặc điểm nào của thể loại. Câu 5 (trang 18, SGK Ngữ văn 11, tập 1 CTST):Chỉ ra một vài biểu hiện của nét đẹp văn hóa được thể hiện trong văn bản.
Câu 1: Bức tranh “chiều xuân” qua ngòi bút của thi sĩ Anh Thơ hiện lên có gì đặc biệt? Hãy chỉ ra một số hình ảnh, chi tiết tiêu biểu làm nên nét riêng của bức tranh đồng quê ấy. Câu 3:Trong nhịp sống hối hả của cuộc sống hiện đại, bức tranh quê trong bài thơ đem đến cho bạn suy nghĩ gì?
Xác định cách giải nghĩa của từ được dùng trong những trường hợp sau:Theo bạn, phần giải thích nghĩa các từ ấp iu và âm u dưới đây đã chính xác chưa? Vì sao?
Chỉ ra một số từ ngữ, hình ảnh gợi tả vẻ đẹp hòa hợp giữa ánh trăng với hoa lá trên đầm sen. Theo bạn, cảm hứng chủ đạo của văn bản trên là gì?