Loigiaihay.com 2025

Đã cập nhật bản mới với lời giải dễ hiểu và giải thêm nhiều sách

Xem chi tiết

Soạn bài Củng cố, mở rộng trang 48 Ngữ Văn lớp 11 Kết nối tri thức tập 1

Qua bài học này, theo bạn, điều gì làm nên sức hấp dẫn của một truyện ngắn hiện đại? Thảo luận nhóm: Suy nghĩ của bạn về hình tượng các nhân vật nữ: thị Nở (truyện ngắn Chí Phèo – Nam Cao) và người vợ nhặt (truyện ngắn Vợ nhặt – Kim Lân). Từ đó, hãy đánh giá giá trị nhân đạo của mỗi tác phẩm.

Câu hỏi 1 (trang 48 SGK Ngữ Văn 11 Tập 1 - KNTT): Qua bài học này, theo bạn, điều gì làm nên sức hấp dẫn của một truyện ngắn hiện đại?

Lời giải:

Qua bài học này, em nghĩ để làm lên sức hấp dẫn của một truyện ngắn hiện đại cần phải có nhiều yếu tố. Trước hết là lựa chọn điểm nhìn. Không phải điểm nhìn với vai trò là người kể chuyện thì luôn nhìn được rõ, bao quát được câu chuyện, đôi khi chúng ta cần thiết phải thay đổi điểm nhìn, đứng trên lập trường của mỗi nhân vật để đưa ra quan điểm chủ quan, tạo nên một cái nhìn đa chiều soi chiếu tính cách của từng nhân vật. Lời kể trần thuật cũng là một yếu tố quan trọng. Trong truyện ngắn, câu từ trau chuốt, dài dòng, khó hiểu đôi khi lại không bằng với những câu văn đơn giản, dễ hiểu. Vì vậy ta cần phải linh hoạt, chỗ nào miêu tả cảnh vật, không gian thì cần thiết phải trau chuốt câu từ, câu nào dùng làm hội thoại của nhân vật thì cần ngắn gọn và đôi khi có thể xen lẫn ngôn ngữ nói để làm nổi bật lên tính cách, tâm tư, tình cảm của các nhân vật trong truyện. Như vậy, điểm nhìn và lời kể trần thuật có thể coi là 2 yếu tố lớn làm lên sức hấp dẫn của truyện ngắn hiện đại. 

Câu hỏi 2 (trang 48 SGK Ngữ Văn 11 Tập 1 - KNTT): Thảo luận nhóm: Suy nghĩ của bạn về hình tượng các nhân vật nữ: thị Nở (truyện ngắn Chí Phèo – Nam Cao) và người vợ nhặt (truyện ngắn Vợ nhặt – Kim Lân). Từ đó, hãy đánh giá giá trị nhân đạo của mỗi tác phẩm.

Lời giải:

1. Hình tượng nhân vật người phụ nữ:

a. Thị nở (Chí Phèo – Nam Cao)

* Ngoại hình

- Miêu tả khách quan, trần trụi: một người “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn”

+ Ngẩn ngơ: hành động theo bản năng

+ Xấu ma chê quỷ hờn: từng đường nét trên khuôn mặt không giống với những gì nên có trên khuôn mặt con người

+ Đã vậy, Thị còn nghèo và nhà có mả hủi:

⇒ Thị khó có được hạnh phúc bởi một con người mang trên mình toàn những điều bất lợi

* Là con người với phẩm chất tốt đẹp, giàu tình người

- Nam Cao xây dựng hình tượng nhân vật Thị Nở xấu ma chê quỷ hờn không phải để miệt thị mà nhằm làm nổi bật nội tâm đầy tình thương của Thị Nở

+ Sau cuộc gặp gỡ vào đêm định mệnh, Thị Nở dành sự quan tâm cho Chí Phèo:

+ Thị Nở quan tâm đến Chí Phèo, nấu cháo hành cho Chí ăn khi hắn bị ốm. Bưng bát cháo hành thị Nở đưa cho “hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”

+ Chính thị Nở đã suy nghĩ về Chí Phèo: “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người” ⇒ một cái nhìn khác với những cái nhìn của người làng Vũ Đại

+Tình cảm và sự quan tâm của Thị Nở với Chí Phèo đã như một liều thuốc chữa lành bao nhiêu “vết thương, vết rạch” để Chí Phèo quay trở lại thành một người với sự lương thiện trong căn tính

⇒ Chính tình thương và sự quan tâm khiến Thị trở nên có duyên trong mắt Chí

* Thị Nở còn là người có khát khao hạnh phúc gia đình

- Thị Nở thích cuộc sống gia đình có vợ có chồng

- Suy nghĩ rất nghiêm túc về mối quan hệ với Chí

- Đối với Chí, cảm giác “ngượng ngượng mà thinh thích”

- Bởi khát khao và suy nghĩ nghiêm túc về hạnh phúc gia đình nên Thị đã trở về xin phép bà cô và thái độ tức giận khi bà cô từ chối

* Là nhân vật góp phần làm nổi bật chủ đề tác phẩm: bi kịch cuộc đời Chí Phèo

- Xây dựng nhân vật Thị Nở, Nam Cao muốn làm trọn vẹn thêm vấn đề trung tâm của tác phẩm: sự bi thảm trong bi kịch cuộc đời Chí Phèo

+ Ban đầu, Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau chỉ bởi sự chung đụng về mặt thể xác

+Sau đó, chính tình thương của Thị Nở đã làm thức dậy sự lương thiện vốn có trong Chí

+ Khi Thị Nở từ chối Chí, Chí Phèo từ chỗ khát khao và hạnh phúc đến tột cùng bị đẩy xuống tận cùng của nỗi tuyệt vọng ⇒ đẩy Chí đến những hành động sau này: uống rượu, xách dao đi giết Bá Kiến và tự sát

⇒ Thị Nở là nhân vật thúc đẩy sự phát triển của câu chuyện, đồng thời cho người ta cảm nhận sâu sắc hơn bi kịch của nhân vật chính: Chí Phèo

b. Hình tượng nhân vật thị (Vợ nhặt – Kim Lân)

* Lai lịch, xuất thân và hoàn cảnh của Thị

- Không có quê hương gia đình → nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.

- Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt” → cho thấy sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói.

- Hoàn cảnh:

+ Không việc làm cụ thể, cuộc sống bấp bênh, bị nạn đói dồn dập đẩy đang trên bờ vực cái chết.

+ Cái đói quay quắt đã dồn đẩy chị, làm chị đánh mất cả sĩ diện và lòng tự trọng

=> Thị là nạn nhân của nạn đói với số phận bi thảm, đáng thương.

* Chân dung ngoại hình của Thị

- Ngoại hình:

+ Quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp

+ Khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.

+ Cái ngực gầy lép nhô lên

=> Ngoại hình không mấy dễ nhìn, là hiện thân của sự nghèo đói, khốn khổ.

- Hành động, cử chỉ

+ Lần thứ nhất, khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ → đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.

+ Lần thứ hai:

• Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn

• Khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”

• Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ... cùng về”, thị đã theo về thật → Trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.

=> Cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người, khiến người ta mất đi cả lòng tự trọng, sĩ diện và sự e thẹn, dịu dàng vốn có của người phụ nữ.

* Phẩm chất, vẻ đẹp tâm hồn của Thị

- Có khát vọng sống mãnh liệt:

+ Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.

+ Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.

- Thị là người ý tứ và nết na:

+ Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.

+ Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình.

+ Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.

+ Sáng hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.

+ Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không buồn làm bà buồn.

=> Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.

- Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.

=> Nhận xét chung: Nhân vật người vợ nhặt là nhân vật thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm, tiêu biểu cho những người nghèo khổ, khốn cùng bị cái đói, cái chết đe dọa, dồn đẩy đến bước đường cùng. Thị luôn khao khát hạnh phúc gia đình, đem đến làn gió tươi sáng, ấm áp cho gia đình anh Tràng và cả người dân ở xóm ngụ cư trong hoàn cảnh bi đát nhất.

2. Giá trị nhân đạo:

a. Chí Phèo – Nam Cao:

- Niềm cảm thương sâu sắc đối với những số phận khổ đau, bất hạnh như Chí Phèo, thị Nở.

- Khẳng định, đề cao nhân tính, đề cao con người.

- Nam Cao phê phán những thế lực bạo tàn chà đạp con người.

- Nam Cao đề ra giải pháp mang tính nhân đạo, mang ý nghĩa hiện thực và triết lí sâu sắc: lật đổ xã hội tàn bạo để bảo toàn nhân tính của con người.

b. Vợ nhặt – Kim Lân:

- Niềm cảm thương, đồng cảm sâu sắc của nhà văn trước số phận của những người nghèo khổ.

- Là tiếng nói khẳng định, đề cao những tình cảm cao đẹp của người lao động nghèo khổ: đó là tình yêu thương đùm bọc, tình mẫu tử, khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc.

- Thể hiện niềm tin, niềm hi vọng vào cuộc sống vào tương lai dù ở trong tình cảnh khốn khó nhất.

- Lên án tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp.

Câu hỏi 3 (trang 48 SGK Ngữ Văn 11 Tập 1 - KNTT): Tìm đọc thêm một số truyện ngắn của Nam Cao (Lão Hạc, Đời thừa, Bài học quét nhà, Cái chết của con mực,...) và Kim Lân (Con chó xấu xí, Làng,...); từ đó, phân tích những nét nổi bật trong nghệ thuật kể chuyện của từng tác giả.

Lời giải:

* Nam Cao

Ông là một trong những cây bút có đóng góp lớn nhất đối với quá trình phát triển của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Ông là người luôn có xu hướng viết về nỗi nghèo khổ của người nông dân đương thời và phản ánh sự thối nát của chế độ xã hội. Bởi vậy, truyện ngắn của ông luôn mang giọng điệu buồn thương, chua chát – một nghệ thuật trữ tình sắc lạnh mà sâu sắc. Đặc biệt chúng ta phải kể đến đó là nét nghệ thuật độc đáo trong các tác phẩm của ông. 

Trước hết phải kể đến là cách lựa chọn đề tài, chủ đề độc đáo. Nam Cao thường chọn những chủ đề nhỏ nhặt như câu chuyện về cuộc đời của Lão Hạc, Chí Phèo rồi văn Hộ… để làm nội dung cho tác phẩm. Nhưng qua những câu chuyện nhỏ nhặt về cuộc sống, tính cách những nhân vật ấy, ông muốn gửi đến người đọc những bài học ý nghĩa, những triết lý nhân sinh sâu sắc về cuộc sống và con người, đồng thời phê phán chế độ xã hội thực dân phong kiến thối nát. Chủ đề chủ yếu mà ông xoay quanh đó là cuộc sống quẩn quanh, bế tắc trong cái đói, cái nghèo như lão hạc; là vấn đề về miếng ăn, cái đói khiến con người từ bỏ tất cả để có được bữa ăn no như bài cái Tý trong “Một bữa no” hay trong “Tư cách mõ”… Tất cả nhằm làm nổi bật nên nỗi bất hạnh, khốn khổ của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. 

Tiếp đến phải kể đến là cốt truyện vững chắc, kết cấu linh hoạt qua từng chi tiết. Như trong Giăng sáng, Đời thừa, Mua nhà, Sống mòn… tâm tư, tình cảm, thái độ của mỗi nhân vật đều được biểu hiện qua những cử chỉ, hành vi, nét mặt hay qua những lời độc thoại nội tâm đều vô cùng xuất sắc và sắp xếp theo một trình tự hợp lý. Thường thì Nam Cao sẽ thường chú ý tới những chi tiết vặt vãnh, nhỏ bé và cho rằng nó mới là những thứ cần thiết để nói lên nhân cách của một con người, của tác phẩm. 

Cuối cùng, phải kể đến đó là nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lý nhân vật tinh tế, sắc sảo. Ông luôn đề cao tư tưởng, chú trọng tới hoạt động bên trong của con người, thể hiện niềm tin vào nhân cách, sự lương thiện của con người dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Bằng việc thâm nhập vào đời sống nội tâm của nhân vật, ông có thể soi chiếu, miêu tả một cách rõ nhất về những sự việc, biến cố xảy ra trong mỗi câu chuyện một cách rõ nét nhất, giúp người đọc hiểu sâu hơn về tác phẩm. 

Như vậy, có thể nói Nam Cao quả là một cây bút lớn của nền văn học Việt Nam bởi lối viết văn chân thực, giản dị, phản ánh những câu chuyện đời thường mà qua đó nhằm truyền tải đến những triết lý nhân sinh sâu sắc.

* Kim Lân

Kim Lân – một trong những cây bút nổi bật khi viết về nông thôn Việt Nam. Tên tuổi của ông gắn với những tác phẩm bình dị, nhân văn sâu sắc của những người nông dân thật thà, chất phác sống trong thời buổi loạn lạc. Bởi vậy, nghệ thuật kể chuyện của ông luôn là một điều khiến nhiều người chú ý đến.

Trước hết là việc lựa chọn chủ đề, đề tài cho tác phẩm. Các tác phẩm của ông đều hướng về nông thôn – nơi ở của những người nông dân chất phác, giàu tình thương người nhưng cuộc sống thường bất hạnh. Như trong truyện ngắn Làng, đó là hình tượng của một con người yêu quê hương, yêu cái làng của mình nhưng phải tản cư vì địch. Đó là câu chuyện về mối duyên vợ chồng bộp chợt của Tràng và thị… Tất cả đều là những con người nghèo khổ nhưng giàu tình thương người, tình yêu quê hương đất nước dù đang phải chịu đựng chiến tranh, loạn lạc, cái đói hoành hành. 

Tiếp đến phải kể đến là nghệ thuật miêu tả chân dung, tâm lý nhân vật qua từng tác phẩm. Các nhân vật của ông đều hiện lên với những tính cách, tâm lý khác nhau được thể hiện qua cử chỉ, hành động và lời nói. Như trong Vợ nhặt, bà cụ Tứ hiện lên là một người mẹ hiền từ, nhân hậu, vóc dáng của bà cũng nói lên cuộc đời khổ đau, bất hạnh mà bà đã trải qua. Người mẹ nghèo ấy, dù vậy nhưng vẫn dạt dào tình thương, không chỉ dành cho đứa con trai mà còn là cô con dâu được “nhặt” về. Bà thương cho số phận của hai đứa cũng thương cho chính thân phận mình. Nhưng dù vậy bà luôn hướng các con đến tương lai tươi sáng dù nạn đói vẫn đang hoành hành, hiện hữu. Không quá cầu kỳ về xuất thân, hoàn cảnh, các nhân vật của ông đều hiện lên một cách giản dị nhưng thấm đượm tình người, tình yêu xóm làng (ông Hai trong truyện ngắn Làng) được thể hiện rõ nét qua những nét chấm phá của Kim Lân. 

Cuối cùng là nghệ thuật sử dụng ngôn từ độc đáo. Chúng ta không thể phủ nhận rằng ông rất có biệt tài trong việc lựa chọn và vận dụng ngôn từ tuyệt vời với sự kết hợp hài hòa nhưng vẫn giữ được nét mộc mạc, giản dị của ngôn ngữ đồng quê. Như trong truyện ngắn Làng hay Vợ nhặt, ta có thể dễ dàng bắt gặp những từ ngữ miêu tả chân dung nhân vật một cách sáng tạo mà hợp lý như “gà gà”, “nhấp nhỉnh”… 

Tóm lại, nhờ vào sự sắc sảo trong lời văn cũng như nhân vật, truyện ngắn của Kim Lân luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về triết lý xã hội sâu sắc về tình người và tình yêu quê hương đất nước. Để từ đó khẳng định song hành cùng những vấn đề về miếng cơm manh áo thì đó là vấn đề tình người và nó mới là yếu tố quan trọng cứu rỗi cuộc đời bất hạnh của mọi người trong thời buổi loạn lạc. 

Sachbaitap.com