Loigiaihay.com 2025

Đã cập nhật bản mới với lời giải dễ hiểu và giải thêm nhiều sách

Xem chi tiết

Soạn bài Luyện tập và vận dụng học Văn 12 Kết nối tri thức tập 1

Có thể xếp bài thơ Bình đựng lệ vào loại thơ tượng trưng được không? Vì sao? Theo hiểu biết của bạn, hình ảnh “bình đựng lệ” có thể gợi nhớ đến những câu chuyện cổ nào?

* Đọc:

Câu hỏi 1 (trang 159 sgk Ngữ văn 12 KNTT Tập 1): 

Có thể xếp bài thơ Bình đựng lệ vào loại thơ tượng trưng được không? Vì sao?

Phương pháp:

Đọc kĩ bài thơ, tìm ra đặc trưng của thể loại bài thơ.

Lời giải:

Có thể xếp vào loại thơ tượng trưng vì ngay từ nhan đề đã xuất hiện hình ảnh biểu tượng và hình ảnh này cũng chảy dài theo suốt bài thơ. Bài thơ thể hiện những cảm xúc, suy tư sâu sắc của thi nhân về cuộc sống, về tình yêu, đồng thời thể hiện một tâm hồn nghệ sĩ đa cảm, tinh tế.

Câu hỏi 2 (trang 160 sgk Ngữ văn 12 KNTT Tập 1): 

Theo hiểu biết của bạn, hình ảnh “bình đựng lệ” có thể gợi nhớ đến những câu chuyện cổ nào?

Phương pháp:

Chú ý đến những chi tiết tác giả miêu tả, bộc lộ cảm xúc về hình ảnh “bình đựng lệ”

Lời giải:

Có thể gợi nhớ đến câu chuyện: Nàng tiên cá, Truyện Kiều,… đều là những câu chuyện kể về sự hy sinh, chịu đựng của con người.  Qua đó, thể hiện những cảm xúc, suy tư của thi nhân về cuộc sống, về tình yêu, đồng thời thể hiện một tâm hồn nghệ sĩ đa cảm, tinh tế.

Câu hỏi 3 (trang 160 sgk Ngữ văn 12 KNTT Tập 1): 

“Bình đựng lệ” là biểu tượng của cái gì? Căn cứ vào đâu để xác định những hàm nghĩa của biểu tượng này?

Phương pháp:

Tìm ra những chi tiết miêu tả về hình ảnh này, tìm ra các căn cứ mà tác giả đưa ra.

Lời giải:

- “Bình đựng lệ” tượng trưng cho nỗi đau

- Nhân vật trữ tình: tôi: có thể là một người lính: “xứ lắm bom” => viết từ những trải nghiệm của bản thân về những nỗi bất hạnh, đau khổ => thời gian trôi qua tưởng đã trơ lì vậy mà “vẫn bàng hoàng”

=> Nỗi đau khổ luôn tồn tại song song với sự tồn tại của con người.

Câu hỏi 4 (trang 160 sgk Ngữ văn 12 KNTT Tập 1): 

Tìm những câu thơ thể hiện nhận thức của tác giả về sự tồn tại vĩnh cửu của “bình đựng lệ”. Tác giả phát biểu nhận thức này dựa trên những trải nghiệm cá nhân nào?

Phương pháp:

Đọc kĩ bài thơ, vận dụng khả năng đọc hiểu văn bản

Lời giải:

“Chiếc bình tuột khỏi tay nhân loại/ Lại về trở lại”; “Ờ, Thế mà chẳng có gì mất hết/ Chiếc bình kia vẫn còn”.

Câu hỏi 5 (trang 160 sgk Ngữ văn 12 KNTT Tập 1): 

Thủ pháp đối lập đã được tác giả vận dụng như thế nào và đạt hiệu quả nghệ thuật gì?

Phương pháp:

Vận dụng tri thức Ngữ văn về thủ pháp đối lập.

Lời giải:

Chế Lan Viên đã thành công trong việc sử dụng thủ pháp đối lập như một công cụ nghệ thuật trong thơ ca của mình. Thông qua việc linh hoạt và sáng tạo áp dụng thủ pháp này, nhà thơ đã mang lại sự sâu sắc cho nội dung, tăng cường tính biểu cảm và tạo ra ấn tượng mạnh mẽ. Kỹ thuật này đã làm cho các bài thơ của ông trở nên đa chiều và sâu sắc hơn, làm cho người đọc cảm nhận được sự phong phú và đa dạng của tác phẩm.

Câu hỏi 6 (trang 160 sgk Ngữ văn 12 KNTT Tập 1): 

Nêu nhận xét về màu sắc nghị luận của bài thơ thông qua một số dấu hiệu hình thức mang tính đặc trưng.

Phương pháp:

Vận dụng khả năng phân tích, vận dụng tri thức đọc hiểu văn bản.

Lời giải:

"Bình đựng lệ" là một tác phẩm thơ đặc sắc, không chỉ về mặt nghệ thuật mà còn về mặt tư tưởng. Sự đa dạng và phong phú của màu sắc nghị luận trong bài thơ đã giúp tác giả truyền đạt những ý niệm, tư tưởng một cách sâu sắc và đầy ấn tượng. Điều này đã làm cho tác phẩm trở nên đặc biệt và có ảnh hưởng sâu rộng đối với độc giả.

Câu hỏi 7 (trang 160 sgk Ngữ văn 12 KNTT Tập 1): 

Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) bày tỏ thái độ đồng cảm hay không đồng cảm của bạn đối với nỗi niềm và nhận thức của tác giả được bộc lộ qua bài thơ.

Phương pháp:

Vận dụng khả năng viết.

Lời giải:

Bài tham khảo 1

Đọc bài thơ "Bình đựng lệ" của Chế Lan Viên, ta không thể không cảm nhận được những nỗi niềm bi tráng và sâu sắc về cuộc sống mà tác giả muốn truyền đạt. Hình ảnh "bình đựng lệ" được sử dụng như một biểu tượng đầy ý nghĩa, tượng trưng cho những đau khổ, nước mắt và khó khăn của con người. Dòng nước mắt tuôn rơi không ngừng, làm ướt cả bầu trời, hòa vào đại dương, thể hiện một sự bất lực và bi tráng của cuộc sống. Tác giả thấu hiểu rằng cuộc sống không phải lúc nào cũng công bằng, con người phải đối diện với nhiều gian khổ, đau thương và nỗi đau. Là một người trẻ, tôi cảm thông với tình cảm và suy tư của tác giả về sự đau khổ và bất lực trong cuộc sống. Tuy nhiên, dù cuộc sống có thể gặp phải những gian khổ và thách thức, tôi không hoàn toàn đồng ý với quan điểm rằng cuộc đời chỉ là nước mắt. Cuộc sống cũng chứa đựng những niềm vui và hạnh phúc, có những khoảnh khắc tươi đẹp và ý nghĩa. Có những người tốt lành, những mối quan hệ ấm áp và những giá trị đích thực. Chúng ta có thể tìm thấy niềm vui trong những điều giản dị, trong tình thân, tình bạn, và trong những thành tựu của bản thân. Tóm lại, bài thơ "Bình đựng lệ" không chỉ là một tác phẩm thơ cao về nghệ thuật mà còn là một lời nhắc nhở về cuộc sống, về sự đau khổ và hạnh phúc, về sự bất lực và hy vọng. Chúng ta cần giữ niềm tin vào giá trị tốt đẹp của cuộc sống và con người, và biết trân trọng những khoảnh khắc tươi đẹp và ý nghĩa trong cuộc sống.

Bài tham khảo 2

Đọc "Bình đựng lệ", ta cảm nhận được nỗi niềm bi tráng và nhận thức sâu sắc của Chế Lan Viên về cuộc đời con người. Nỗi niềm ấy được thể hiện qua hình ảnh "bình đựng lệ" - biểu tượng cho những đau khổ, bất hạnh của con người. Nước mắt tuôn rơi không ngừng, thấm ướt cả bầu trời, hòa vào đại dương, thể hiện nỗi đau vô bờ bến của kiếp nhân sinh. Tác giả nhận thức rằng cuộc đời con người đầy rẫy những bất công, oan trái, con người phải chịu đựng nhiều đắng cay, tủi nhục. Là một người trẻ tuổi, tôi đồng cảm với nỗi niềm bi tráng của tác giả. Cuộc sống vốn không hoàn hảo, con người phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách. Chúng ta cũng từng trải qua những giọt nước mắt vì thất vọng, buồn đau, vì những bất công, oan trái trong cuộc sống. Tuy nhiên, tôi không hoàn toàn đồng ý với nhận thức của tác giả về cuộc đời chỉ toàn nước mắt.Cuộc sống cũng có những niềm vui, niềm hạnh phúc, có những con người tốt bụng, yêu thương nhau. Chúng ta có thể tìm thấy niềm vui trong những điều bình dị, trong tình yêu thương của gia đình, bạn bè, trong những thành quả đạt được sau nỗ lực. Tóm lại, tôi đồng cảm với nỗi niềm bi tráng của tác giả nhưng tin tưởng rằng cuộc đời vẫn có những điều tốt đẹp. Chúng ta cần có niềm tin vào cuộc sống, vào con người, và luôn giữ cho mình một trái tim nhân hậu, biết yêu thương và chia sẻ.

* Viết:

Câu hỏi phần Viết (trang 160 sgk Ngữ văn 12 KNTT Tập 1): 

Viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện cùng sáng tác về một đề tài hoặc cùng nói về một loại nhân vật.

Phương pháp:

Dựa vào kiến thức đã học và kĩ năng viết đoạn văn.

Lời giải:

Cả hai tác phẩm "Chuyện chức phán sự Đền Tản Viên" và truyện cổ tích "Thạch Sanh" đều sử dụng yếu tố kì ảo, và điều này tạo ra nhiều điểm tương đồng giữa chúng. Trước hết, trong cả hai tác phẩm, chúng ta thấy xuất hiện những nhân vật kì ảo, không có thực. Trong "Chuyện chức phán sự Đền Tản Viên", các nhân vật kì ảo được mô tả rất chi tiết, mang đầy ý nghĩa sâu xa. Hồn ma tướng giặc Bách hộ họ Thôi, cái hồn bơ vơ ở Nam Triều, hay nhân vật Thổ Công - người giữ chức Ngực sự đại phu từ thời Lý Nam Đế, tất cả đều là hiện thân của cái ác và giả dối. Trong khi đó, Diêm Vương, người đứng đầu Minh ti, cũng là một nhân vật kì ảo, trực tiếp phán xử vụ án giữa Tử Văn và hồn ma tướng giặc. Tương tự, trong truyện "Thạch Sanh", cũng có những nhân vật không có thực, chỉ tồn tại trong thế giới cổ tích như Ngọc Hoàng, thái tử, chằn tinh và các đồ vật thần kỳ như niêu cơm thần ăn mãi không hết, tiếng đàn giúp cho Thạch Sanh được giải oan. Ngoài ra, cả hai tác phẩm đều có mô típ về vong hồn tồn tại sau khi chết và sự phân chia Thiện - Ác trong thế giới thần linh, những yếu tố này là những điểm quen thuộc Tuy vậy, việc sử dụng yếu tố kì ảo trong cả hai tác phẩm lại có những điểm khác biệt đáng chú ý. Đầu tiên, là sự xuất hiện của nhân vật chính. Trong "Chuyện Chức phán sự Đền Tản Viên", nhân vật chính là Ngô Tử Văn, được tác giả giới thiệu một cách cụ thể và chi tiết. Tên và nơi sinh của Ngô Tử Văn được liên kết với những địa điểm thực tế như "huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang". Trong khi đó, nhân vật chính của truyện cổ tích "Thạch Sanh" có một nguồn gốc xuất thân hoàn toàn kì ảo. Thạch Sanh được mô tả là một thái tử, nhưng lại được sinh ra từ một gia đình giàu lòng nhân ái, luôn giúp đỡ mọi người, một nguồn gốc không có thực trong thế giới thực tế.

Tuy vậy, việc sử dụng yếu tố kì ảo trong cả hai tác phẩm lại có những điểm khác biệt đáng chú ý. Đầu tiên, là sự xuất hiện của nhân vật chính. Trong "Chuyện Chức phán sự Đền Tản Viên", nhân vật chính là Ngô Tử Văn, được tác giả giới thiệu một cách cụ thể và chi tiết. Tên và nơi sinh của Ngô Tử Văn được liên kết với những địa điểm thực tế như "huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang". Trong khi đó, nhân vật chính của truyện cổ tích "Thạch Sanh" có một nguồn gốc xuất thân hoàn toàn kì ảo. Thạch Sanh được mô tả là một thái tử, nhưng lại được sinh ra từ một gia đình giàu lòng nhân ái, luôn giúp đỡ mọi người, một nguồn gốc không có thực trong thế giới thực tế. Sự khác biệt tiếp theo nằm ở kết thúc của hai tác phẩm. Trong "Chuyện Chức phán sự đền Tản Viên", Ngô Tử Văn trở về và nhận chức phán sự đền Tản Viên, thể hiện sự công bằng và can đảm của một kẻ sĩ trong việc đấu tranh cho sự công lý, không chỉ cho bản thân mà còn cho những người yếu thế. Trong khi đó, ở truyện cổ tích "Thạch Sanh", Thạch Sanh được kết duyên với công chúa và được truyền lại ngôi vua, thể hiện triết lý sống "ở hiền gặp lành" và nguyên tắc báo ứng của kẻ ác. Về giá trị của tác phẩm, mỗi tác phẩm đều đặt nặng vào một mô típ chuyện riêng biệt. "Thạch Sanh" nhấn mạnh vào triết lý sống và nguyên tắc báo ứng, trong khi "Chuyện Chức phán sự Đền Tản Viên" đề cao sự cứng cỏi và can đảm trong việc tìm kiếm công bằng và sự công lý. Điều này thể hiện sự đa dạng và sâu sắc của văn học dân gian, mỗi tác phẩm mang một thông điệp riêng biệt và giá trị độc đáo của mình.

Qua sự phân tích, đánh giá giữa những điểm tương đồng và khác biệt, ta có thể thấy yếu tố kì ảo trong thể loại truyền kì là sự kế tục của thể loại văn học dân gian: Sự xuất hiện của những nhân vật kì ảo không có thực hay là mô típ truyện có những chi tiết hoang đường, huyền ảo như: người chết sống lại, thế giới thần linh cũng phân chia thiện ác… Dòng truyện kì ảo trung đại, dù vẫn còn mang bóng dáng của văn học dân gian, nhưng đây là những sáng tác đậm dấu ấn cá nhân của tác giả, gắn liền với sự bừng ngộ, sự ý thức của con người đối với hiện thực. Cảm hứng của Nguyễn Dữ khi sáng tác Truyền kì mạn lục là lấy cái “ kì” để nói cái “ thực”.. Vì lẽ đó, yếu tố kì ảo được sử dụng như một phương thức kể chuyện khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn, sinh động. Ngoài ra, yếu tố kì ảo và yếu tố hiện thực đan xen vào nhau, cùng tồn tại để bộ lộ tư tưởng của tác giả. Điều này khác với truyền cổ tích Thạch Sanh khi mà yếu tố kì ảo có vai trò to lớn, không thể thiếu trong sự phát triển tình tiết, giải quyết xung đột: chiếc đàn thần, niêu cơm của Thạch Sanh….

* Nói và nghe:

 

Câu hỏi phần Nói và nghe(trang 160 sgk Ngữ văn 12 KNTT Tập 1): 

Thuyết trình về một tác phẩm truyện có cách tiếp cận và thể hiện mới mẻ đối với đời sống, khát vọng của tuổi 20.

Phương pháp:

Dựa vào kiến thức đã học và kĩ năng phần thực hành Nói và nghe.

Lời giải:

Bài tham khảo 1

Thuyết trình: "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh" - Nguyễn Nhật Ánh

Nếu bạn từng trải qua những kỷ niệm ngọt ngào của tuổi thơ, những ngày hè êm đềm bên những trang sách của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, hoặc từng lớn lên trong những làng quê yên bình của Việt Nam, thì chắc chắn bạn không thể bỏ qua cuốn sách "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh" - một tác phẩm đã được vinh danh bằng giải thưởng văn học ASEAN vào năm 2010 của Nguyễn Nhật Ánh. Cuốn sách đã gây ra một làn sóng mới khi được đạo diễn Victor Vũ chuyển thể thành bộ phim với tựa đề vẫn giữ nguyên.

Nguyễn Nhật Ánh, sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955, là người con của thôn An Mỹ, xã Bình An, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Ông là một nhà văn nổi tiếng tại Việt Nam, chuyên viết về thế giới của tuổi mới lớn. Ông được biết đến với biệt danh "ông hoàng của văn học trẻ thơ". Mặc dù trào lưu văn học nước ngoài ngày càng được giới trẻ quan tâm, nhưng những tác phẩm về tuổi thơ của ông vẫn giữ được sức hút đặc biệt đối với độc giả. Điều này là minh chứng cho sức sống mãnh liệt của văn học Việt Nam.

"Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh" là một tiểu thuyết dành cho thanh thiếu niên của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Cuốn sách được phát hành lần đầu tiên tại Việt Nam vào ngày 9/12/2010. Đây là một trong những tác phẩm dài của ông, ra đời sau "Đảo mộng mơ" và "Lá nằm trong lá". "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh" là một trong những cuốn sách bán chạy nhất tại Việt Nam từ năm 2010 đến nay, với tổng số bản in lên đến hơn 20.000 bản. Câu chuyện kể về cuộc sống hàng ngày và tâm trạng của Thiều, một cậu bé 13 tuổi sống ở một vùng quê nghèo. Thiều có một người em trai tên là Tường, một cậu bé đáng yêu, hiền lành và rộng lượng. Trái ngược với Tường, Thiều là một người hướng ngoại, khá tinh quái, nhưng thực sự rất quan tâm và hào hiệp. Câu chuyện cũng mô tả mối quan hệ giữa hai anh em và cộng đồng người dân trong ngôi làng, bao gồm cả gia đình và bạn bè của họ. Thiều nhận ra mình có tình cảm với Mận, một cô bé xinh xắn hơn cậu một tuổi, và học chung lớp với cậu. Một biến cố xảy ra khi nhà Mận bốc cháy, gia đình Thiều đã giúp đỡ Mận và đưa cô bé về sống chung với gia đình. Tuy nhiên, sự thân thiết giữa Tường và Mận khiến Thiều cảm thấy ghen tỵ. Mùa lũ đến, làng quê bị ngập lụt, gây ra nhiều thiệt hại như đói kém và mất mùa. Trong khi đó, sự ghen tức và hẹp hòi trong Thiều khiến em trai của cậu bị thương nặng, không thể ngồi dậy được. Một ngày, Tường kể cho Thiều nghe một câu chuyện về một nàng công chúa, là nguồn động viên giúp Tường hồi phục. Công chúa đó thực chất là Nhi, con gái của một người dân trong làng, có vấn đề về thần kinh và cho rằng mình là công chúa. Sự quan tâm của Tường đã giúp Nhi tìm lại sức mạnh và sự tự tin của mình, khiến cô bé trở lại bình thường.

Đây là câu chuyện cổ tích về tuổi thơ, tình ạnh em, về tình bạn giữa cuộc sống xô bồ, vội vã này. Nó giống như những bông hoa vàng trên bãi cỏ xanh rộng lớn để rồi khi gấp trang sách lại, ta khẽ mỉm cười, chợt nhận ra có cái gì đó nảy nở trong lòng. Đây là lần đầu tiên ông đưa ra nhân vật phản diện vào tác phẩm của mình . Sự đố kỵ, hung hang của Sơn khi cố giành bé Mận từ tay Thiều. Bé Nhi chính là yếu tố làm cho câu chuyện liền mạch, tình cảm của các cô-cậu bé cũng gắn bó hơn bao giờ. Đối với những độc giả trung thành của nhà văn thì đây là tác phẩm có nét độc đáo so với các tác phẩm trước. Nguyễn Nhật Ánh trong một lần trả lời phỏng vấn đã chia sẻ : “Tuổi thơ của tôi là cả một thế giới đầy ám ảnh, tôi luôn luôn bắt gặp mình thổn thức khi nhớ về những ngày thơ ấu. Khi ấy là khi tôi nhận ra mình đã ở quá xa sân ga tuổi thơ và tôi viết những cuốn sách để kéo chúng lại gần.”. Cuốn sách“Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” không chỉ là cuốn sách chỉ để đọc một lần, thi thoảng chúng ta mở vài trang rồi gấp lại để khiến tâm hồn thêm chút thư thái, thảnh thơi giữa cuộc sống vội vã. Trong tác phẩm “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ” của Nhật Ánh cũng viết rằng: “ Cuốn sách này không dành cho trẻ em nhưng viết cho những ai từng là trẻ em.”. Và ở cuốn sách “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” cũng vậy, cuốn sách không chỉ dành cho các em thiếu nhi mà dành cho ai từng có một tuổi thơ.

Bài tham khảo 2

Kính thưa quý thầy cô và các bạn. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau bước vào một hành trình thú vị, khám phá về việc vay mượn, cải biến và sáng tạo trong văn học. Đây là một chủ đề không chỉ đầy thách thức mà còn rất hấp dẫn, vì nó là nền tảng của sự phát triển và đa dạng hóa trong ngành nghệ thuật. Trên hành trình này, chúng ta sẽ cùng nhau khám phá sâu hơn về cách những tác giả thông qua việc sáng tạo và tái chế các yếu tố văn học đã tồn tại, để tạo ra những tác phẩm mới mẻ, độc đáo và ý nghĩa.

Vấn đề về việc vay mượn, cải biến và sáng tạo không chỉ là một khía cạnh kỹ thuật của việc viết văn, mà còn là một phần quan trọng của quá trình sáng tạo nghệ thuật. Khi một tác giả lấy cảm hứng từ những tác phẩm trước đó, họ không chỉ đơn giản là sao chép, mà còn làm mới và làm giàu thêm ý nghĩa, tạo ra một sản phẩm mới với cái nhìn và cảm xúc riêng. Qua cuộc thảo luận hôm nay, chúng ta hy vọng sẽ có cái nhìn rõ ràng hơn về tầm quan trọng của việc vay mượn, cải biến và sáng tạo trong văn học, cũng như cách mà những yếu tố này góp phần làm nên sự độc đáo và giá trị của một tác phẩm nghệ thuật. Hãy cùng nhau khám phá và thảo luận để hiểu sâu hơn về chủ đề này và trao đổi ý kiến của mình trong quá trình học tập và nghiên cứu văn học.

Văn học, với bản chất nghệ thuật đặc biệt của nó, là nơi mà các tác giả sử dụng ngôn ngữ để phản ánh tư tưởng, cảm xúc và quan điểm của mình về thế giới xung quanh. Trong quá trình sáng tác, họ không chỉ dựa vào trải nghiệm và cảm nhận cá nhân mà còn mượn một số yếu tố từ các tác phẩm khác. Tuy nhiên, việc mượn không đồng nghĩa với việc sao chép. Để tạo ra một tác phẩm độc đáo và mang dấu ấn riêng, các tác giả thường cần phải cải biến những yếu tố mượn và sáng tạo trên cơ sở đó. Mượn là việc sử dụng các yếu tố từ các tác phẩm khác như cốt truyện, nhân vật, chi tiết, mô típ, hình ảnh, ngôn ngữ... Mục đích của việc mượn là để làm phong phú thêm nội dung và hình thức của tác phẩm, tạo sự liên kết với các tác phẩm khác và giúp tác giả truyền đạt quan điểm, tư tưởng của mình. Ví dụ, việc Nguyễn Du lấy cảm hứng từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân để sáng tạo ra Truyện Kiều hay việc nhiều nhà văn Việt Nam chuyển thể vở kịch Hamlet của Shakespeare sang sân khấu.

Tuy nhiên, việc mượn chỉ là bước khởi đầu. Để tạo ra một tác phẩm độc đáo, các tác giả thường cần phải cải biến những yếu tố đã mượn để phù hợp với mục đích sáng tạo của mình. Cải biến có thể thể hiện qua việc thay đổi cốt truyện, nhân vật, chi tiết, mô típ... và sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh sáng tạo và độc đáo. Ví dụ, Nguyễn Du đã cải biến nhiều chi tiết trong Truyện Kiều để tạo ra một tác phẩm mới với nội dung và ý nghĩa mới, hoặc Shakespeare đã thay đổi nhiều yếu tố trong vở kịch Hamlet để phản ánh văn hóa và xã hội của nước Anh. Sáng tạo là yếu tố quan trọng nhất, thể hiện bản sắc riêng của mỗi tác giả. Sáng tạo là khả năng kết hợp hài hòa giữa việc mượn và cải biến, đồng thời thể hiện tư tưởng, quan điểm và tình cảm của tác giả qua tác phẩm của mình. Ví dụ, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một sáng tạo độc đáo, thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc và tài năng nghệ thuật của ông, trong khi Hamlet của Shakespeare là một sáng tạo phản ánh những suy tư về cuộc đời và con người.

Vay mượn, cải biến và sáng tạo có mối quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau. Vay mượn là nền tảng để cải biến và sáng tạo. Cải biến là cầu nối giữa vay mượn và sáng tạo. Sáng tạo là yếu tố quyết định giá trị của tác phẩm. Việc sử dụng hợp lý các yếu tố vay mượn, cải biến và sáng tạo góp phần tạo nên giá trị của tác phẩm. Khi vay mượn, cần ghi rõ nguồn gốc để thể hiện sự tôn trọng đối với tác giả và tác phẩm gốc. Cải biến và sáng tạo là yếu tố thể hiện bản sắc riêng của tác giả.

Hiểu được tầm quan trọng của vay mượn, cải biến và sáng tạo giúp chúng ta đánh giá cao giá trị của tác phẩm văn học, đồng thời sáng tạo hiệu quả trong các lĩnh vực khác nhau.

Sachbaitap.com

Xem thêm tại đây: Ôn tập học kì 1