Loigiaihay.com 2025

Đã cập nhật bản mới với lời giải dễ hiểu và giải thêm nhiều sách

Xem chi tiết

Soạn bài Củng cố, mở rộng trang 151 Ngữ Văn lớp 11 Kết nối tri thức tập 1

Tổng hợp những thông tin cơ bản về hai văn bản kịch đã học trong bài (Sống hay không sống – đó là vấn đề, Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài) theo gợi ý sau: tình huống, nhân vật, xung đột, thông điệp.

Câu hỏi 1 (trang 151 SGK Ngữ Văn 11 Tập 1 - KNTT): Tổng hợp những thông tin cơ bản về hai văn bản kịch đã học trong bài (Sống hay không sống – đó là vấn đề, Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài) theo gợi ý sau: tình huống, nhân vật, xung đột, thông điệp.

Lời giải:

 

Sống hay không sống – đó là vấn đề

Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài

Tình huống

Hăm-lét được báo mộng về cái chết của cha, chàng quyết định giả điên để tìm ra sự thật và báo thù cho cha.

Vua Lê Tương Dực lệnh Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài gây nên sự oán hận trong lòng dân.

Nhân vật

Hăm-lét, Clo-đi-út, Ô-phê-li-a, Pô-lô-ni-út,…

Vũ Như Tô, Đan Thiềm, Nguyễn Hoàng,…

Xung đột

Xung đột về mặt nội tâm của nhân vật Hăm-lét, đó là sự mâu thuẫn giữa việc đấu tranh để bảo vệ chính mình trước hiện thực xấu xa hay cứ sống chịu đựng, sống với lý tưởng nhân văn.

Nhân dân, những người thợ xây đài >< tầng lớp vua chúa phong kiến, Vũ Như Tô >< những người thợ phu phen bị bắt bớ, phu dịch để xây Cửu Trùng Đài.

Thông điệp

Hãy giữ bản thân luôn tỉnh táo, sáng suốt để đưa ra những quyết định đúng đắn. Dù trước hoàn cảnh nào đi chăng nữa, dù bị vùi dập, dẫm đạp; con người vẫn phải giữ lấy lý trí và niềm tin của mình.

Thông điệp mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, giữa lí tưởng nghệ thuật cao siêu và lợi ích của nhân dân.

 

Câu hỏi 2 (trang 151 SGK Ngữ Văn 11 Tập 1 - KNTT): Tìm đọc các vở bi kịch; chỉ ra tình huống, nhân vật, xung đột và thông điệp chính trong các tác phẩm mà bạn đã đọc.

Lời giải:

Vở kịch: Hồn Trương Ba da hàng thịt

- Tình huống: Trương Ba là một người làm vườn ngoài 60 tuổi tốt bụng và chơi cờ rất giỏi. Do sự tắc trách của Nam Tào đã khiến Trương Ba bị chết ón. Vì muốn sửa sai, Nam Tào đã để Trương Ba nhập vào xác của một anh hàng thịt vừa mới chết ở làng bên. 

- Nhân vật: Trương Ba, vợ anh hàng thịt, lí trưởng, Nam Tào… 

- Xung đột: từ khi nhập vào xác của anh hàng thịt, Trương Ba không còn giữ được nét thanh tao ngày xưa, ông bị tiêm nhiễm nhiều thói hư, tật xấu, cùng với những yêu cầu rất khác trước đây. Điều đó khiến tâm hồn thanh cao xưa kia của ông bị thay đổi, và ông không muốn sống cuộc sống như vậy. 

- Thông điệp chính: qua vở kịch, tác giả muốn gửi gắm đến người đọc thông điệp rằng sự sống thật sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Hạnh phúc của con người là chiến thắng được bản thân, chiến thắng sự dung tục, hoàn thiện được nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.

Câu hỏi 3 (trang 151 SGK Ngữ Văn 11 Tập 1 - KNTT): Tìm hiểu thêm về các nhân vật, sự kiện lịch sử được nhắc tới trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài. Yếu tố lịch sử đã được Nguyễn Huy Tưởng sử dụng như thế nào và có vai trò gì trong tác phẩm?

Lời giải:

- Nhân vật lịch sử: Vũ Như Tô,Lê Tương Dực, Trịnh Duy Sản,…

- Sự kiện lịch sử dưới thời phong kiến khoảng 1516 – 1517: Tháng 4 năm 1516, quân khởi nghĩa Trần Cảo nhân khi kinh thành rối loạn bèn tiến đánh Thăng Long. Cùng lúc đó, Nguyễn Hoằng Dụ đóng quân ở Bồ Đề, được tin Duy Sản giết vua, liền đem quân qua sông, đốt hết phố xá trong kinh thành. Hoằng Dụ còn cho bắt chém Vũ Như Tô rồi mang quân rút khỏi Thăng Long. Đài cũng bị đốt thành tro sau lần đó. 

- Yếu tố lịch sử đã được Nguyễn Huy Tưởng đưa vào vở kịch một cách khéo léo, mặc dù viết về lịch sử, những vấn đề mà Nguyễn Huy Tưởng đặt ra trong các sáng tác của mình vẫn luôn luôn mới và làm thao thức người đương thời. Lấy đề tài lịch sử nhưng không nhằm mục đích làm sử mà qua đó, nhà văn xây dựng được bi kịch của một người nghệ sĩ giữa khát vọng và hiện thực xã hội.

Câu hỏi 4 (trang 151 SGK Ngữ Văn 11 Tập 1 - KNTT): Thu thập, phân tích và đánh giá các thông tin về một trong số các vấn đề gợi ý sau:

- Nghệ thuật thời Phục hưng;

- Kiến trúc thành Thăng Long;

- Lịch sử Việt Nam thế kỉ XVI – XVII.

Lời giải:

* Kiến trúc thành Thăng Long

trải qua thời gian và những biến cố của lịch sử, thành Thăng Long đã có nhiều thay đổi, biến dạng, nhưng đến nay vẫn còn thấy được cả di tích trên mặt đất, dưới lòng đất, di tích lịch sử cách mạng, di tích khảo cổ, di tích kiến trúc nghệ thuật,… tạo thành hệ thống các di tích được đánh giá là quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích đô thị cổ, trung, cận, hiện đại của nước ta. Hiện tại, trong khu vực trung tâm Thành cổ Thăng Long - Hà Nội còn lại 5 điểm di tích nổi trên mặt đất phân bố theo trục Bắc – Nam, còn gọi là “Trục chính tâm”, “Trục ngự đạo”, gồm có: Kỳ Đài, Đoan Môn, nền điện Kính Thiên, Hậu Lâu, Bắc Môn, tường bao và kiến trúc cổng hành cung thời Nguyễn, di tích nhà và hầm D67, các công trình kiến trúc Pháp…

Kinh thành Thăng Long từ thời Lý được xây dựng theo cấu trúc ba vòng thành, gọi là “tam trùng thành quách”: vòng thành ngoài là La thành hay Đại La thành, vòng thành giữa là Hoàng thành (thời Lý - Trần - Lê gọi là Thăng Long thành, thời Lê còn gọi là Hoàng thành) và vòng thành trong cùng gọi là Cấm thành (hay Cung thành). Cấm thành từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 18 hầu như không thay đổi và còn bảo tồn cho đến nay hai vật chuẩn rất quan trọng: Thứ nhất là nền điện Kính Thiên xây dựng thời Lê sơ (1428) trên nền điện Càn Nguyên (sau đổi tên là điện Thiên An) thời Lý, Trần. Đó vốn là vị trí của núi Nùng (Long Đỗ - Rốn Rồng), được coi là tâm điểm của Cấm thành và Hoàng thành, nơi chung đúc khí thiêng của non sông đất nước theo quan niệm phong thuỷ cổ truyền, mà di tích hiện còn là nền điện với bậc thềm và lan can đá chạm rồng thế kỷ 15. Thứ hai là cửa Đoan Môn, cửa Nam của Cấm thành thời Lý - Trần - Lê. Trên vị trí này hiện nay vẫn còn di tích cửa Đoan Môn thời Lê.

Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (1799-1872), trong sách Đại Việt địa dư chí toàn biên có đoạn mô tả khá rõ ràng về Hoàng thành Thăng Long thời Lê: “Ở giữa là Cung thành, trong cửa Cung thành là Đoan Môn. Trong Đoan Môn là điện Thị Triều, trong điện Thị Triều là điện Kính Thiên. Bên hữu Kính Thiên là điện Chí Kính, bên tả là điện Vạn Thọ. Bên hữu Đoan Môn là Tây Trường An, bên tả là Đông Trường An, ở giữa có Ngọc Giản. Trong Hoàng thành và ngoài Cung thành ở phía Đông là Thái Miếu, sau là Đông Cung”.

Tài liệu tham khảo:

Sở Du lịch Hà Nội (2020), Khu di tích Hoàng thành Thăng Long, Cổng thông tin điện tử Quận Ba Đình – Thành phố Hà Nội.

Câu hỏi 5 (trang 151 SGK Ngữ Văn 11 Tập 1 - KNTT): Xác định một đề tài nghiên cứu, xây dựng đề cương cho đề tài đó (dựa trên các thông tin đã tìm được) và trình bày đề cương nghiên cứu của bạn.

Lời giải:

Đề tài nghiên cứu: Nghệ thuật thời Phục hưng

1. Đặt vấn đề

Nghệ thuật phục hưng đó là một phong cách nghệ thuật bao gồm hội họa, điêu khắc và kiến trúc xuất hiện ở châu Âu vào khoảng năm 1400; cụ thể là ở Ý. Nghệ thuật là một trong những số mũ chính của Phục hưng Châu Âu. Trong giai đoạn này, ông bắt đầu nhận ra những nghệ sĩ vẫn còn nổi tiếng, như Boticelli, Giotto và van der Weyden.

2. Giải quyết vấn đề

Sự cải tiến của hội họa

Trong thế kỷ mười lăm, một số họa sĩ nổi tiếng người Hà Lan đã phát triển những cải tiến cho cách tạo ra tranh sơn dầu. Trong thời kỳ Phục hưng, các nghệ sĩ Ý đã sử dụng các kỹ thuật mới của Hà Lan để cải thiện các bức tranh của họ.

Hiện tượng này có ảnh hưởng đến chất lượng và thời gian của các tác phẩm nghệ thuật, ngoài ra đã mang lại những thay đổi đáng kể cho bức tranh trên toàn thế giới. 

Ngoài ra, thời Phục hưng phần lớn là do sự hiện diện của các nhân vật người Ý xuất sắc. Nhiều người trong số này được coi là giỏi nhất mọi thời đại về tầm ảnh hưởng, như Piero della Francesca và Donatello.

Sự hiện diện của những nghệ sĩ này làm cho chất lượng nghệ thuật nói chung được cải thiện đáng kinh ngạc, bởi vì ngay cả các họa sĩ ít nổi tiếng cũng được truyền cảm hứng từ sự xuất hiện của các kỹ thuật mới để cải thiện sáng tạo của riêng họ.

Sự tái hiện của các văn bản cổ điển

Một trong những ảnh hưởng chính của văn học Phục hưng là sự xuất hiện lại của các văn bản thời trung cổ đã bị mất trong Thời đại đen tối của nhân loại.

Những người văn học nghiên cứu các văn bản này đã sử dụng ảnh hưởng của họ để cải thiện các tác phẩm của họ và mang lại một liên lạc cũ cho phong trào, mà vào thời đó là đương đại.

Kiến trúc

Ý tưởng của các kiến trúc sư thời Phục hưng đã đi ngược lại với ý tưởng của người Gothic về việc tạo ra các cấu trúc với mức độ phức tạp cao trong thiết kế và chiều cao tuyệt vời của họ. Thay vào đó, họ bám vào các ý tưởng cổ điển về việc tạo ra các cấu trúc sạch sẽ đơn giản nhất có thể. Điều này dẫn đến việc tạo ra kiến trúc tròn.

Điêu khắc

Giống như hội họa, điêu khắc thời Phục hưng thường được định nghĩa bởi các đặc điểm giống như các tác phẩm điêu khắc trước thời Trung cổ… Các tính năng của mỗi người được truyền cảm hứng rõ ràng từ điêu khắc cổ điển và mục đích là tìm ra một mức độ chân thực cao hơn trong mỗi tác phẩm thông qua một chạm khắc theo tỷ lệ giải phẫu.

3. Kết luận

Các tác phẩm của thời Phục hưng tập trung vào niềm tin nhân văn rằng những hành động đúng đắn là chìa khóa của hạnh phúc, những ảnh hưởng tôn giáo mà khái niệm này có thể bị bỏ qua một bên…

Tài liệu tham khảo

1. Phục hưng, bách khoa toàn thư về thế giới hiện đại buổi đầu, 2004. Lấy từ bách khoa toàn thư.com

2. Nghệ thuật Phục hưng Ý & Nghệ sĩ Phục hưng, Trang web Nghệ thuật Phục hưng, (n.d.). Lấy từ renaissanceart.org 

3. Nghệ thuật và kiến trúc Phục hưng, Nghệ thuật Oxford, (n.d.). Lấy từ oxfordartonline.com

4. Phục hưng, điêu khắc phương Tây; Bách khoa toàn thư Britannica, (n.d.). Lấy từ brittanica.com

5. Điêu khắc Phục hưng, Nhân văn thiết yếu, 2013. Lấy từ Essential-humanities.net

Sachbaitap.com