Soạn bài Củng cố, mở rộng trang 59 SGK Ngữ văn 11 Kết nối tri thức tập 2Nêu những dấu hiệu để có thể nhận biết các yếu tố trữ tình trong ba văn bản Ai đã đặt tên cho dòng sông?, "Và tôi vẫn muốn mẹ.", “Cà Mau quê xứ”. Câu 1 (trang 59 SGK Ngữ Văn 11 KNTT tập hai): Nêu những dấu hiệu để có thể nhận biết các yếu tố trữ tình trong ba văn bản Ai đã đặt tên cho dòng sông?, "Và tôi vẫn muốn mẹ.", “Cà Mau quê xứ”. Phương pháp: Đọc kỹ 3 tác phẩm truyện. Lời giải:
Câu 2 (trang 59 SGK Ngữ Văn 11 KNTT tập hai): Cho đề bài: Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường nhận thấy dòng sông Hương “không bao giờ tự lặp mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Hãy phân tích sự độc đáo trong cảm hứng của chính tác giả về sông Hương qua đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng sông? a. Lập dàn ý cho bài viết. b. Chọn hai ý và triển khai thành hai đoạn văn có liên kết với nhau. Phương pháp: Đọc kỹ văn bản và triển khai dàn ý. Lời giải: I. Mở bài: - Giới thiệu về đề tài sông Hương - Giới thiệu Hoàng Phủ Ngọc Tường và bái bút kí - Giới thiệu vẻ đẹp của sông Hương khi chảy vào thành phố II. Thân bài 1. Hoàn cảnh ra đời và nội dung tác phẩm – Tác phẩm được sáng tác tại Huế năm 1981 “Ai đã đặt tên cho dòng sông” rút ra từ tập bút kí cùng tên, là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương Hoàng Phủ Ngọc Tường, lấy cảm hứng từ dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế để từ đó nhà văn bày tỏ tình yêu đất nước con người. – Đánh giá nhận xét của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Có thể nhắc đến sông Xen, dòng sông đẹp nhất của thủ đô Pa ri để dẫn tới lời nhận xét của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở câu mở đầu đoạn trích: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước….một thành phố duy nhất” Đánh giá: Nhận xét mang đậm tính chủ quan của nhà văn. Thể hiện nét độc đáo sông Hương, uyên bác, tự hào. 2. Vẻ đẹp của Sông Hương khi chảy vào lòng thành phố. – Đánh giá đoạn văn, như câu chuyển ý: Đoạn văn như được cảm nhận dưới con mắt nghệ thuật của nhà văn, hội họa và âm nhạc. Sông Hương được ví như người tình của xứ Huế. “Sông Hương vui tươi hẳn lên…đông bắc” –> nhà văn cảm nhận sông Hương như một thực thể sống động, có niềm tin, tâm trạng khi tìm lại được chính mình “Chiếc cầu trắng… lời của tình yêu”. –> vẻ đẹp thanh thoát của sông Hương và cầu Tràng Tiền được miêu tả qua nghệ thuật so sánh tài hoa. “Không giống như sông Xen…yêu quý của mình” –> niềm tự hào của tác giả khi so sánh sông Hương với các con sông nổi tiếng trên thế giới. - Sông Hương trong cảm nhận âm nhạc Sông Hương – “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, sông Hương chảy chậm, điệu chạy lững lờ vì nó quá yêu thành phố của mình. –> chất âm nhạc thể hiện ở nhịp điệu êm đềm của bài bút kí bởi những câu văn dài nối tiếp nhau. Nhà văn liên tưởng đến dòng sông Nê va cảu Lê-nin-grat… III. Kết bài - Nêu cảm nhận về hình tượng dòng sông Hương ở trong lòng thành phố Huế - Đánh giá nghệ thuật nổi bật Câu 3 (trang 59 SGK Ngữ Văn 11 KNTT tập hai): Cho đề tài: Để thành công, dứt khoát phải dựa vào nội lực, không cần sự hỗ trợ từ bên ngoài. a. Chuẩn bị nội dung thảo luận, tranh luận về đề tài trên. b. Tổ chức tập thảo luận, tranh luận trên cơ sở nội dung đã chuẩn bị. Phương pháp: Dựa vào kiến thức đã học về phần thảo luận về một vấn đề của đời sống để trả lời câu hỏi này. Lời giải: a. Nội lực là yếu tố quan trọng để đạt được thành công. Tự tin trong khả năng của bản thân và sẵn sàng đối mặt với khó khăn là những yếu tố quan trọng để vượt qua mọi thách thức. Tuy nhiên, không có nghĩa là không cần sự hỗ trợ từ bên ngoài. Đôi khi, việc có người khác đồng hành, cung cấp thông tin, hướng dẫn hoặc cung cấp sự động viên có thể giúp ích rất nhiều trong quá trình đạt được mục tiêu. b. Được tổ chức trong buổi tranh luận ở lớp Câu 4 (trang 59 SGK Ngữ Văn 11 KNTT tập hai): Chọn ba văn bản thuộc các thể loại tùy bút, tản văn, truyện kí,... mà bạn yêu thích; đọc, chỉ ra và phân tích những nét đặc sắc về nghệ thuật của từng văn bản. Phương pháp: Chọn một văn bản và phân tích nghệ thuật. Lời giải: Lựa chọn văn bản 1: Một thứ quà của lúa non: Cốm Bài tùy bút “Một thứ quà của lúa non: Cốm” đã thể hiện được nét đặc sắc của tác giả Thạch Lam là thiên về cảm giác tinh tế, nhẹ nhàng mà sâu sắc. Đây cũng là đặc điểm chung trong các sáng tác của Thạch lam nói chung. Trong bài tùy bút, có rất nhiều chi tiết có thể sáng tỏ cho nhận định này. Chẳng hạn như khi nói về sự hình thành của hạt cốm, tác giả đã viết một đoạn văn miêu tả thấm đượm cảm xúc, thông qua những từ ngữ chọn lọc tinh tế, những câu văn có nhịp điệu: Khi đi qua cánh đồng xanh…mùi thơm của bông lúa non; Trong cái vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ; Giọt sữa dần dần đọng lại; Rồi một loạt cách chế biến để làm ra tứ cốm dẻo ấy. ta có thể thấy Thạch Lam đã rất cẩn trọng trong chọn lọc từ ngữ miêu tả, câu văn thì nhiều nhạc điệu để thể hiện được luận điểm: Cốm là thứ quà đặc biệt của lucas non, của bàn tay khéo léo. Để có hạt cốm cắn đến sự khéo léo của con người. Vì vậy sau đoạn mở đầu tác giả đã nói đến nghề làm cốm nổi tiếng ở làng Vòng. Tác giả khong đi vào miêu tả tỉ mỉ kĩ thuật hay công việc làm cốm mà cho biết đó là một nghệ thuật với một loạt cách chế biến, những cách thức truyền từ đời này sang đời khác. Văn bản 2: Sài Gòn tôi yêu Trong bài tùy bút Sài Gòn tôi yêu, tác giả Minh Hương đã thể hiện tình yêu mãnh liệt đối với Sài Gòn trong sự cảm nhận về phong cách của người Sài Gòn. Trước hết, tác giả lí giải nguyên nhân Sài Gòn là nơi hội tụ của người tứ phương: bởi Sài Gòn hội tụ người của bốn phương những hòa hợp, không phân biệt, qua đó thể hiện phẩm chất tốt đẹp của người Sài Gòn, đó chính là sự cởi mở, đoàn kết. Phong cách của người Sài Gòn lại được tác giả Minh Hương thể hiện qua chi tiết những cô gái yểu điệu, thiết tha, e ngại, ngượng nghịu như vầng trăng mới ló, cười chum chím, sáng rỡ, hóm hỉnh, nhí nhảnh. Qua miêu tả của tác giả ta thấy được phong cách của người Sài Gòn, đó chính là sự tinh tế, chân thành, cởi mở, bộc trực, vẻ đẹp tự nhiên, dễ gần mà dũng cảm cao đẹp. Qua văn bản Sài gòn tôi yêu đã cho người đọc thấy được Sài Gòn là một đô thị sầm uất, đông đúc, con người sống với nhau bằng tình yêu thương và sự đoàn kết, gắn bó. Đồng thời thể hiện được tình cảm yêu thương, trân trọng của tác giả Minh Hương đối với vùng đất này. Văn bản 3: Mùa xuân của tôi Giới thiệu nhà văn Vũ Bằng và tác phẩm Mùa xuân của tôi: Tác phẩm “Mùa xuân của tôi” được trích từ thiên tùy bút “Tháng Giêng mơ về trăng non nét ngọt” in trong tập “Thương nhớ mười hai” của tác giả Vũ Bằng. Bằng những đặc sắc cả về nội dung và nghệ thuật, nhà văn đã gửi vào tác phẩm nỗi niềm thương nhớ quê hương, gia đình và lòng mong mỏi đất nước được hòa bình, thống nhất. Mùa xuân trên đất Bắc hiện lên trong nỗi nhớ của nhà văn là những cảnh đẹp thiên nhiên, những cảnh sinh hoạt đời thường đặc trưng, đó là những hình ảnh đẹp, cứ in hằn trong tâm tưởng của nhà văn: “mùa xuân Hà Nội là mùa xuân có mưa riêu riêu…có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng”. Bằng giọng văn kết hợp giữa kể chuyện, miêu tả và biểu cảm rất nhịp nhàng, hài hòa và trôi chảy tự nhiên, nhà văn đã thể hiện rõ niềm nhớ thương da diết mùa xuân của quê hương, không chỉ có cảm nhận về mùa xuân nói chung, nhà văn còn có cảm nhận về mùa xuân trong tháng Giêng của miền Bắc. Sachbaitap.com
Xem thêm tại đây:
Bài 7. Ghi chép và tưởng tượng trong kí
|
Đề bài: Thảo luận về sự phát triển của công nghệ.
Cây diêm cuối cùng khắc họa hình ảnh nhân vật “tôi” trong cuộc chiến đấu ở đỉnh núi Hy Mã Lạp Sơn, câu chuyện cảm động cây diêm cuối cùng giữa hai nhân vật kẻ thù sau đó và những suy nghĩ về tình cảm con người trong cuộc sống.
Hãy chia sẻ những điều bạn đã biết về đời sống của người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến và những năm đầu thế kỉ XX.
Văn bản đã đưa ra dự báo về tương lai nhân loại, đó là sự phát triển vượt bậc của trí tuệ nhân tạo AI.