Loigiaihay.com 2025

Đã cập nhật bản mới với lời giải dễ hiểu và giải thêm nhiều sách

Xem chi tiết

Soạn bài Nói và nghe: Trình bày kết quả đánh giá so sánh hai tác phẩm truyện Văn 12 Kết nối tri thức tập 1

Trình bày kết quả đánh giá, so sánh hai tác phẩm truyện.

Câu hỏi (trang 34 sgk Ngữ văn 12 KNTT Tập 1): 

Trình bày kết quả đánh giá, so sánh hai tác phẩm truyện.

Phương pháp:

Dựa vào bài viết.

Lời giải:

Bài kham khảo 1

Xin chào thầy cô và các bạn. Tôi là …………………. Học sinh lớp….. Trường ………………………….

Các bạn thân mến! Tô Hoài và Kim Lân, hai tác giả nổi tiếng thời kháng chiến chống Pháp, viết về cuộc sống nông dân Việt trước Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm "Vợ Nhặt" và "Vợ Chồng A Phủ" kết thúc mở, đặt hy vọng vào một cuộc sống mới cho nhân vật. Điều này tạo ra một khía cạnh mới trong văn học so với việc chỉ giải thoát cho nhân vật khỏi gò bó xã hội.

Cả hai tác phẩm “Vợ nhặt” và “Vợ chồng A Phủ” là biểu tượng của sự sáng tạo của hai tác giả. Trái với việc Kim Lân mô tả đau đớn của người nông dân trong đói năm 1945, Tô Hoài lại tập trung vào cuộc sống khốn khó của người nông dân vùng núi Tây Bắc. Mặc dù khác biệt về chủ đề và phong cách, nhưng cả hai tác phẩm đều nêu lên số phận của người nông dân nghèo, thể hiện sự đồng cảm và tôn trọng của tác giả với họ. Điều này được thấy rõ qua phần kết của cả hai.

"Vợ nhặt" của Kim Lân, viết năm 1954, tường thuật về cuộc sống nông dân Bắc Bộ trong đại nạn đói năm 1945. Nhân vật chính là Tràng, một người nghèo sống tại xóm Ngụ Cư. Mặc dù gây bất ngờ cho mọi người, Tràng đã có vợ ngay khi nạn đói đang diễn ra gay gắt. Câu chuyện kết thúc với hình ảnh bữa cơm thảm hại của gia đình Tràng: "có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo", cùng tiếng trống thuế vang vọng. Trong đầu Tràng hiện lên hình ảnh những dòng người "kéo nhau đi trên đê Sộp, với lá cờ đỏ lớn."

Kết thúc của "Vợ nhặt" của Kim Lân dựa trên thực tế cuộc sống Việt Nam vào thời điểm đó. Năm 1945, dân ta chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa chống đối chính quyền, và phong trào phá kho thóc Nhật đã bắt đầu. Cuộc đói đến từ chính sách cướp của Pháp và cải cách "nhổ cỏ trồng đay" của Nhật. Dưới sự đe dọa của cái chết, người nông dân tự ý thức và tham gia cuộc đấu tranh. Mặc dù không rõ liệu Tràng đã tham gia "lá cờ đỏ" hay không, câu chuyện mở ra cơ hội cho sự liên tưởng. Kết thúc mở này thể hiện niềm tin vào sự thay đổi của nhân vật, gia đình, và hàng ngàn người dân nghèo khác.

Với "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài lại dẫn người đọc đến với cuộc sống của những người nông dân nghèo vùng Tây Bắc. Nhân vật chính trong truyện là Mị và A Phủ. Nếu như Mị là cô "con dâu gạt nợ" nhà thống lý Pá Tra, phải sống kiếp "con trâu, con ngựa", bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần thì A Phủ trở thành người ở không công cho nhà thống lí chỉ vì đánh nhau với con quan. Hai con người đau khổ ấy gặp nhau, cảm thông, thấu hiểu cho nhau từ những giọt nước mắt và họ đã quyết định giải thoát cho nhau khỏi thân phận nô lệ.

Truyện kết thúc ở chi tiết Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ và vụt chạy theo A Phủ để giải phóng chính mình. Sau đêm tình mùa xuân, Mị trở về với cuộc sống lầm lũi, cam chịu như trước kia. Trong một lần "thổi lửa hơ tay", Mị đã bắt gặp "một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại" của A Phủ. Chính dòng nước mắt ấy đã làm cho Mị bừng tình, nhận thức được quyền sống của mỗi con người, nhận thức được sự độc ác của giai cấp thống trị. Vậy nên Mị đã "rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây" cắt đứt sợi dây trói cho A Phủ và thả A Phủ chạy thoát. Thế nhưng chỉ vài phút "đứng lặng trong bóng tối", Mị cũng "vụt chạy ra" theo A Phủ. Và rồi hai con người khốn khổ ấy "lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi". Sau này, hai người trở thành vợ chồng và dưới ánh sáng của cách mạng, họ cùng nhau chiến đấu bảo vệ quê hương.

Cái kết của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ đã cho chúng ta thấy được sự đồng cảm sâu sắc giữa những con người khốn khổ, cho ta thấy được sức sống tiềm tàng của họ, nhận thực sâu sắc của họ về quyền sống, quyền được tự do và hạnh phúc cùng với đó là tinh thần đấu tranh với bọn địa chủ phong kiến. Nếu như trước đây, Mị sống "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa", sống vô cảm, vô hồn thì giọt nước mắt của A Phủ đã đánh thức trong tâm hồn Mị ý thức về sự sống. Hành động cắt đứt dây trói giải thoát cho A Phủ của Mị cũng là sự giải thoát cho chính bản thân mình. Giọt nước mắt ấy đã đánh thức khao khát sống tự do, hạnh phúc của cô. Và rồi hai con người đau khổ của đất Hồng Ngài đã dẫn nhau "lẳng lặng" "lao chạy xuống dốc núi" trốn thoát khỏi những hủ tục phong kiến, những sự thống trị tàn bạo và dã man, đó là sự tự ý thức của họ về quyền sống, tự do của một con người.

Dù Kim Lân và Tô Hoài viết về các đề tài khác nhau, kết thúc của "Vợ chồng A Phủ" và "Vợ nhặt" có những điểm chung. Cả hai tác giả đều mở ra một tương lai sáng sủa và tự do cho người nông dân nghèo. Họ dẫn nhân vật của mình đến với ánh sáng của cách mạng, hy vọng vào một cuộc sống mới. Tuy nhiên, "Vợ nhặt" tập trung vào khổ đau của người nông dân dưới bóng đe doạ của phát xít thực dân, trong khi "Vợ chồng A Phủ" thể hiện sức mạnh nội tại của họ khi tự giải thoát khỏi tình thế khó khăn.

Hai chi tiết, hai cái kết trong Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt là khác nhau nhưng ta thấy rõ được những tâm tư, những tình cảm, những giá trị nhân đạo mà cả Kim Lân và Tô Hoài đều hướng tới. Đó là lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc trước những số phận đau khổ bị đày đọa bởi đói nghèo, bởi giai cấp thống trị. Để từ đó hướng họ tới một tương lai tươi sáng hơn khi họ vùng lên dưới ánh sáng cách mạng.

Trên đây là phần trình bày của tôi về việc so sánh, đánh giá kết thúc hai tác phẩm "Vợ Nhặt" và "Vợ Chồng A Phủ". Mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn. Cảm ơn mọi người đã chú ý lắng nghe.

Bài kham khảo 2

Xin chào thầy cô và các bạn, hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau thảo luận và so sánh hai tác phẩm truyện ngắn nổi tiếng của văn học Việt Nam: "Nỗi Buồn Chiến Tranh" của Bảo Ninh và "Xuân Tóc Đỏ Cứu Quốc" trích “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng. Hai tác phẩm này đã làm nổi bật những góc khuất của lịch sử và những góc nhìn đa chiều về con người.

Trước hết chúng ta sẽ cùng nhau tóm tắt lại nội dung của hai tác phẩm này. "Nỗi Buồn Chiến Tranh" của Bảo Ninh là tác phẩm kể về cuộc sống của một nhân vật sau khi chiến tranh kết thúc, anh ta đã phải chịu đựng những bi kịch và khó khăn của cuộc sống hàng ngày khi những kí ức về chiến tranh, những kỉ niệm đau thương cứ ùa về. Bằng cách tập trung vào nhân vật chính là Kiên, tác giả đã khắc họa một cách chân thực những tác động của chiến tranh lên tâm hồn con người. Với "Xuân Tóc Đỏ Cứu Quốc" - Vũ Trọng Phụng, tác phẩm lại mô tả câu chuyện của xã hội trong thời kì âu hóa tân tiến, con người muốn hòa nhập vào lối sống thời thượng nên khiến cho xã hội trở nên kệch cỡm, dởm đời giữa thời kì “Á-Âu lẫn lộn”. Đó chính là nguyên nhân cũng như là môi trường lí tưởng để bọn lưu manh khôn lỏi, thất học như Xuân Tóc Đỏ có thể một bước lên tiên, hắn bước vào thế giới thượng lưu và thay đổi thân phận. Từ một thằng đi nhặt bóng ở sân quần biến thành một ông đốc-tờ Xuân, một anh hùng cứu quốc được người đời ca tụng, tán dương.

Dù khác đề tài tuy nhiên hai tác phẩm này đã tái hiện được những giá trị khác nhau. "Nỗi Buồn Chiến Tranh" tập trung vào việc tìm hiểu tác động của chiến tranh lên cuộc sống hàng ngày và tâm hồn con người, trong khi "Xuân Tóc Đỏ Cứu Quốc" đặt vào trọng tâm vào cuộc cứu quốc kệch cỡm của bọn dởm đời, trở thành tiếng cười trào phúng xuyên suốt tác phẩm. Trong “Nỗi buồn chiến tranh” Bảo Ninh đã xây dựng cốt truyện xoay quanh nhân vật Kiên và các sự kiện hiện lên không mấy rõ ràng nhưng người đọc cũng có thể hiểu rõ bởi cách xây dựng nhân vật ở đây là một nhân vật trở lại từ chiến trường. Anh ấy sống trong cảm giác và kí ức chỉ mình anh ta thấu hiểu để rồi câu chuyện sẽ từ hiện tại ngược về quá khứ rồi lại quay về hiện tại. Đó chính là nét đặc sắc của tác phẩm này. Ngoài ra, tác giả thường sử dụng ngôn ngữ sâu sắc và tinh tế để tái hiện môi trường chiến tranh và tâm trạng của nhân vật. Còn với Vũ Trọng phụng, ông xây dựng một cốt truyện bất ngờ, kịch tính trong cuộc đấu quần vợt căng thẳng của hai nước Việt Nam và Xiêm La, cách xây dựng cốt truyện ấy càng khiến người đọc thấy rằng sự lố bịch trong thời kì đó. Nhà văn đã  dùng những từ ngữ mỉa mai nhất để kể và tả lại các sự kiện. "Nỗi Buồn Chiến Tranh" thường nhấn mạnh vào sự mất mát và đau buồn trong cuộc sống thông qua diễn biến tâm lí của nhân vật Kiên trong khi "Xuân Tóc Đỏ Cứu Quốc" lại nhấn mạnh vào những tình tiết vô lí để gây cười và mỉa mai.

Dù là hai tác phẩm khác nhau về nội dung và phong cách, "Nỗi Buồn Chiến Tranh" và "Xuân Tóc Đỏ Cứu Quốc" đều là những tác phẩm văn học đặc sắc của văn học Việt Nam. Chúng không chỉ làm rõ sự đau khổ và mất mát trong cuộc chiến, mà còn tôn vinh tình yêu quê hương và sự hy sinh của con người Việt Nam. Thông qua việc so sánh hai tác phẩm này, chúng ta có thể nhận thấy sự đa dạng và phong phú và cách nhìn thế giới đa chiều của các nhà văn cũng như những giá trị nhân văn và lịch sử mà chúng mang lại.

Trên đây là phần trình bày so sánh đánh giá hai tác phẩm truyện của em, rất mong nhận được sự nhận xét góp ý của các thầy cô và các bạn.

Sachbaitap.com